Thứ Hai, 18 tháng 2, 2013

Kinh Lạy Cha.




Kinh Lạy Cha là lời kinh mà Chúa Giêsu đã muốn để lại cho các môn đệ của Người. Đối với mọi Kitô hữu, đây là lời kinh Thánh Thiêng, không chỉ vì nó xuất phát từ chính môi miệng của Chúa Giêsu mà nhất là vì Người muốn biểu lộ qua lời kinh đó tính độc đáo của niềm tin vào Người. Chúa Giêsu là  con đường cần thiết để đến với Chúa Cha và nhờ Người là Con, chúng ta có thể hướng về Thiên Chúa mà gọi Người là Cha.
Kinh Lạy Cha không hướng ngoại, chỉ theo chiều ngang. Chúa Giêsu thường nhấn mạnh đến lời cầu nguyện phải hướng về Chúa Cha, Ðấng thấu suốt những gì kín đáo. (Mt 6,6). Vì vậy kinh nguyện Kitô giáo là mộ cuộc đối thoại thân mật, đượm tình nghĩa con thảo giữa người Kitô hữu và Thiên Chúa. Lời kinh xuất phát từ lòng con người và hướng tới lòng Thiên Chúa.
Chúng ta gặp thấy trong Tân Ước hai hình thức của Kinh Lạy Cha ở Mt 6,9-13 và Lc 11, 2-4.
LẠY CHA CHÚNG CON Ở TRÊN TRỜI.
Kinh nguyện Kitô giáo thưa với Thiên Chúa bằng cách gọi Người là Cha, danh từ này, vào thời đó, trong môi trường của Chúa Giêsu và của các môn đệ, trước hết mang một âm hưởng có tính xã hội. Cùng với ý thức trách nhiệm và sự quan tâm, người cha là người tổ chức đời sống gia đình và chu cấp mọi nhu cầu của các phần tử trong gia đình. Tất cả gia dình đều dựa vào người cha, vào hoạt động, vào khả năng và sự khôn ngoan của ông. Qua đó, chúng ta hướng về Thiên Chúa mà cảm thấy cùng nhau sống trong một gia đình, ý thức rằng với tư cách là Cha Thiên Chúa chăm sóc chúng ta một cách thích đáng.
Cũng cần phải nhấn mạnh đến mối tương quan liên chủ thể. Người  cha là người giáo dục, dạy dỗ, hiểu con mình và đứa con đặt hết niềm tin vào nơi ông. Vì thế, khi gọi Thiên Chúa là Cha, người Kitô hữu cảm thấy mình được liên kết với Người  bằng mối giây liên hệ gia đình và cảm thấy mình được yêu thương và hiểu biết  hoàn toàn (hai chiều kích). Tuy nhiên khía cạnh tập thể nổi bật hơn. Chúa Cha, Ðấng nhìn thấy trong nơi kín đáo cũng là Ðấng nhìn thất tất cả sống chung với nhau.
Thiên Chúa là Cha nhưng vẫn là Ðấng siêu việt. tuy nhiên sự siêu việt không làm giảm tư cách làm Cha của Người. Thiên Chúa làm Cha ở mức độ vô biên. Điều này được diễn tả qua cụm từ “Ðấng ở Trên Trời”
Trời là lãnh vực dành riêng coh Thiên Chúa, nhấn mạnh tới khía cạnh không thể đạt tới được. Vì thế chúng ta không thể tầm thường hóa Thiên Chúa, coi Người như một người cha ở trần gian.
DANH CHA CẢ SÁNG (DANH THÁNH CHA VINH HIỂN)
Trong môi trường Kinh Thánh, danh hay tên thay thế cho ngôi vị. Ðặ tên , đổi tên một người chỉ một sự thay đổi của người đó, trao ban cho họ một phẩm cách hay một khả năng mới để thi hành một sứ mạng mới. tiêu biểu cho con người là gì. Vậy khi cầu xin cho Danh Cha cả sáng, chúng ta cầu xin cho chính Người, với tư cách là Cha, được cả sáng, được Hiển Thánh.
“Thánh” là cái gì đặc trưng của Thiên Chúa. Thế nhưng sao có thể thánh hóa Thiên Chúa? Người ta đã hiểu theo nghĩa nhìn nhận: “Xin cho Chúa được nhìn nhận là Ðấng Thánh” nhưng đó không phải là nghĩa thường dùng của động từ này- Thánh hóa ở thể chủ động, có nghĩa là “làm cho nên Thánh, làm cho nên giống Chúa”.

Cat Nguyen

Suy Tư Ngày Cuối Năm






Trong bức họa biểu tượng sự khôn ngoan trong lối sống của con người được nhà danh họa Titian vẽ vào thế kỷ thứ 16 là chân dung của một người đàn ông với ba đầu:
·          Đầu thứ nhất là khuôn mặt của một thanh niên hướng về tương lai.
·          Đầu thứ nhì là khuôn mặt của một người chững chạc, trưởng thành nhìn vào hiện tại
·          Đầu thứ ba là khuôn mặt của một cụ già, hướng về quá khứ.
Bên dưới bức họa được đề những hàng chữ với nội dung sau: “Qua những vết xe đổ hòa lẫn với những thành quả trong quá khứ, con người hiện tại biết phải ứng xử thế nào cho khôn ngoan để tránh những lầm lỗi trong tương lai."
Thưa Quý Vị Thân Hữu , thềm năm mới là thời điểm để ta có những giây phút suy tư về cuộc đời mình. Chắc mỗi chúng ta cũng giống như hình ảnh của bức họa kia, nhìn lại quá khứ, với bao thành quả tốt đẹp, xen lẫn với những thất bại trong đời sống. Đồng thời hướng về tương lai, khiến lòng ta băn khoăn hòa lẫn với những lo lắng vì không biết ngày mai mình sẽ ra thế nào.
Nếu quý vị nào ở tuổi 65, thì vị đó đã dùng hết 600,000 giờ. Nếu quý vị tốt nghiệp trung học năm 18 tuổi thì quý vị có được 412,000 hay 47 năm để sống sau khi hoàn tất chương trình Trung Học.
Thời giờ là món quà mà Thượng Đế ban cho mọi người, không phân biệt sang hèn, không phân biệt giai cấp. Có nhiều người dù không có nhiều tiền để tiêu xài, nhưng họ đã phí phạm thì giờ một cách không suy nghĩ.
Thời giờ của chúng ta sống trên đất nầy rất quý và rất hạn chế. Không ai có thể đoán chắc rằng mình sẽ sống được bao nhiêu tuổi. Có ngừơi ví cuộc đời ta giống như :
·          Que diêm quẹt. Khi ta đánh diêm, lửa bật cháy, cháy một lúc rồi lại lụn tàn.
·          Chiếc tủ lạnh. Ta vẫn ở trong tăm tối cho đến khi có người đến mở cửa và muốn lấy cái gì đó từ trong tủ.
·          Tờ giấy. Ta càng sử dụng lâu thì tờ giấy càng nhăn.
·          Một bóng đèn điện. Khi cầu chì bị nổ khiến cho ta phải sống trong tăm tối.
·          Dòng nước. Thoạt đầu chảy rất mạnh nhưng dần dà chảy chậm lại cuối cùng phải ngừng chảy.
·          Cuộc vui. Chỉ vui trong chốc lát rồi chấm dứt.
Cho nên cuộc đời chúng ta thật ngắn ngủi và vô nghĩa dẫu rằng khoa học tiến bộ tạo nhiều tiện nghi vật chất cho con người.
Thuốc men làm gia tăng tuổi thọ con người, làm cho con người sống lâu hơn. Khoa học và kỹ thuật làm con người càng lúc càng sống khỏe hơn. Viễn vọng kính và TV mở rộng tầm mắt con người chúng ta. Điện thoại, radio, microphone mở rộng lỗ tai chúng ta. Xe hơi, phi cơ kéo dài bước chân chúng ta. Nhưng đời sống chúng ta vẫn thấy thiếu cái gì đó. Có cái gì đó quan trọng cần thiết hơn là đời sống ta.
Bảo một ai đó có thể nói cho chúng ta biết vì sao mình có mặt trên đời nầy và rồi đây mình sẽ đi về đâu? Thì chúng ta không thể nào tìm được câu giải đáp!
Tiến Sĩ David Suzuki cho rằng: Đã từ lâu chúng ta mơ ước một ước mơ. Ước mơ là một khi con người chúng ta phát triển tình trạng kinh tế xã hội thì tất cả mọi sự sẽ tốt đẹp hơn và mọi sự đều được giải quyết ổn thỏa. Nhưng sự thật phủ phàng là một khi chúng ta cố đấu tranh cho sự sống còn thì chúng ta phải bị bế tắt với câu hỏi là "Con người sống còn để làm gì?"
Có người lại cho rằng rằng: Đời sống giống như đại dương. Bạn càng lội thì bạn vẫn bì bõm trên mặt nước. Nhưng khi bạn lặn xuống sâu bạn sẽ tìm được kho báu.
Thánh Kinh là lời của Thiên Chúa cho ta câu giải đáp. Sở dĩ con người sống trong lao khổ, sống vô mục đích là vì họ chỉ để tâm đến sự phát triển vật chất hơn là quan tâm đến vấn đề tâm linh. Vì vấn đề tâm linh, vấn đề của linh hồn, mới thật là điều then chốt hơn thể xác, nhờ đời sống tâm linh mà đời sống ta mới thật sự có ý nghĩa.
Nhà tỉ phú lừng danh nhất trên thế giới là John D Rockefeller, nhưng ông cũng là người khốn khổ nhất trên đời. Ông không thể ngủ được, không có tình yêu, không có bình an, lúc nào bên mình ông cũng có những vệ sĩ. Đến 53 tuổi ông bị chứng bệnh lạ: đầu rụng hết tóc, thân hình ốm o, còm cõi. Bác sĩ cho biết là ông chỉ còn 1 năm để sống. Rockefeller bắt đầu suy tư về cõi đời đời, tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài. Từ đó cuộc đời ông thay đổi. Ông dùng tiền bạc mình dâng cho Chúa, giúp các nhà thờ, bố thí cho người nghèo. Ông sáng lập ra Quỹ Tài Trợ Ford Foundation để giúp cho việc khảo cứu y khoa, phát triển ngành y tế cho nhân loại. Lạ thay, Chúa chữa bệnh ông, khác hẳn với lời tiên đoán của bác sĩ là ông chỉ còn sống được một năm. Thực tế là từ ngày ông có Chúa ngự vào tâm hồn, ông sống một đời sống thật ý nghĩa, Chúa cho ông sống thêm 45 tuổi. Đến năm 98 tuổi ông mới qua đời.
Chúa Jêsus là Đấng hôm qua ngày nay cho đến đời đời không hề thay đổi. Ngài đang ở đây để đem sự sống và sự sống phong phú, sự sống đầy ý nghĩa và vĩnh cửu cho những ai tiếp nhận Ngài, cho những ai mời Ngài làm Chúa, làm Chủ cuộc đời mình, gia đình mình và đất nước mình. Riêng những ai đã tiếp nhận Ngài, thì Chúa ban quyền năng để thi hành công tác mở mang hội thánh, xây dựng nhà thờ, đi ra cứu vớt những linh hồn tội nhân đang lặn hụp trong biển tội quay về với Ngài.
Kính Thưa Quý Vị Thân Hữu, rất mong trước thềm năm mới, quý vị suy nghĩ những điều thiết thực trong đời sống: Quý Vị nhìn vào những thất bại trong quá khứ để tránh những vấp ngã trong tương lai, nhìn thành quả trong quá khứ để tiếp tục sống thành công hơn.

Lối sống


 Nguyễn Trần Bạt
Chủ tịch/Tổng giám đốc InvestConsult Group
Con người luôn luôn phải tồn tại trong một cộng đồng người, một nước, một khu vực nhất định. Trong cuộc sống chung như thế, người ta buộc phải tuân thủ những qui tắc nhất định, thành văn hoặc bất thành văn. Những qui tắc này bao trùm tất cả các lĩnh vực: đạo đức, thẩm mỹ... Trong số đó, có những qui tắc dần dần được cá nhân thừa nhận và trở thành thói quen. Đó là lối sống cá nhân. Có những qui tắc được thừa nhận rộng rãi trong nội bộ một cộng đồng nào đó. Chúng được người ta tuân thủ gần như vô điều kiện, gần như một lẽ đương nhiên. Đó là lối sống cộng đồng.
Lối sống là một thói quen có định hướng, có chất lượng lý tưởng. Lối sống là phương cách thể hiện tổng hợp tất cả các cấu trúc, nền văn hoá, đặc trưng văn hoá của một con người hay một cộng đồng.
Xưa nay chúng ta vẫn nhầm lẫn về quyền liên quan đến tự do sống, chúng ra nhầm lẫn khi cho rằng nó là một yếu tố hoàn toàn độc lập với cộng đồng và tuyệt đối, chúng ta phấn đấu cho những yếu tố có tính chất tự do tuyệt đối trong lối sống, đó là nhận thức sai lầm.
Con người có học hành, tích luỹ kinh nghiệm, có tích luỹ các giá trị văn hoá đi nữa thì cuối cùng cũng thể hiện mình thông qua hành vi. Trong câu nói “gieo hành vi thì được thói quen...” mà chúng tôi nhắc đến trên kia, thói quen chính là lối sống: "gieo thói quen được tính cách, gieo tính cách được số phận". Lối sống là tiêu chí đầu tiên, tiêu chí tổng hợp nhất, thể hiện chất lượng văn hoá và trí tuệ của một con người. Lối sống không chỉ là hành vi như cách đi lại, ăn nói, nó là hành vi hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm tư duy, làm việc và phương cách xử lý các mối quan hệ.
Như thế, ta có thể định nghĩa lối sống như những cách thức, phép tắc tổ chức và điều khiển đời sống cá nhân và cộng đồng đã được thừa nhận rộng rãi và trở thành thói quen. Lôi sống có quan hệ chặt chẽ với phương thức sản xuất của mỗi thời đại. Marx đã viết về điều đó trong cuốn Hệ tư tưởng Đức như sau: 'Không nên nghiên cứu phương thức sản xuất ấy đơn thuần theo khía cạnh nó là sự tái sản xuất "ra sự tồn tại thể xác của cá nhân. Mà hơn thế, nó đã là một hình thức hoạt động nhất định của những cá nhân ấy, một hình thức nhất định của sự biểu hiện đời sống của họ, một lối sống nhất định của họ”. Như thế, phương thức sản xuất, theo Marx, là cơ sở đầu tiên để chúng ta nghiên cứu, tìm hiểu về lối sống. Cũng từ đó có thể kết luận rằng mỗi tầng lớp, mỗi nhóm người có lối sống riêng của mình.
Tuy nhiên, lối sống hình thành và thể hiện không chỉ trong lao động sản xuất, mà cả trong nhiều lĩnh vực khác như hoạt động xã hội, hoạt động chính trị, hoạt động tư tưởng văn hoá, thể dục thể thao...
Lối sống bao gồm nhiều yếu tố cấu thành như:
- Cách thức lao động, làm ăn, kinh doanh...
- Các phong tục tập quán
- Cách thức giao tiếp, ứng xử với nhau
- Quan niệm về đạo đức và nhân cách
Người ta không thể có lối sống, hay quyền hành động, tự do tuyệt đối. Trên thực tế bao giờ cũng có những sự ràng buộc nhất định. Một số chế độ chính trị quy định hay giám sát các hành vi sống. Một số nhà chính trị vô tình hoặc cố ý làm cho con người nhầm tưởng rằng tự nhiên họ đã bị ràng buộc như vậy. Thực ra, không nên chỉ huy hành vi mà nên chỉ huy các tiêu chuẩn văn hoá của hành vi. Khi người ta tạo ra các tiêu chuẩn văn hoá của hành vi thì tự nhiên con người cảm thấy rằng mình không còn phải tuân thủ một người hoặc một lực lượng nào đó, mà hành động theo các tiêu chuẩn xã hội văn hoá.
Trên lý thuyết, người ta phân biệt giữa lối sống cộng đồng và lối sống cá nhân. Tuy nhiên, trong thời đại toàn cầu hoá, khái niệm này là tương đối.
Chúng ta đang sống trong một thời đại mà không ai có thể đứng ngoài mối quan tâm và lợi ích chung, không quốc gia nào có thể đứng ngoài các các mối quan tâm và quyền lợi của cộng đồng thế giới. Để tạo ra cuộc sống người ta phải đi lại, va chạm, gia nhập vào cộng đồng thế giới. Trong xã hội hiện đại, nhờ những phương tiện kỹ thuật tiên tiến, sự giao lưu của con người không chỉ khắc phục được những hạn chế cố hữu về thời gian và không gian trước đây mà còn diễn ra với sự đổi mới cơ bản về chất, nghĩa là khoảng cách giữa lối sống cá nhân và lối sống cộng đồng càng ngày càng bị thu hẹp lại.
Cũng như hành vi cá nhân, lối sống cá nhân không tuyệt đối. Lối sống cá nhân bị lệ thuộc rất nhiều vào lối sống cộng đồng. Cộng đồng sống, với cá nhân đó, được định nghĩa như là một thói quen, một tiêu chuẩn được chấp nhận bởi cộng đồng sống thường xuyên mà người ta gọi là lưu trú, cư trú. Mật độ thời gian đi lại, giao lưu với các cộng đồng khác ngày càng lớn hơn do nhu cầu làm ăn phát triển, hội nhập, giao lưu... Như vậy các cá nhân không những va chạm với cộng đồng mình mà còn va chạm với cộng đồng khác và các cộng đồng cũng va chạm với nhau. Điều này tạo ra sự hình thành các tiêu chuẩn về lối sống, về giao lưu rất đặc biệt trong thời đại của chúng ta.
Việc hình thành thói quen, lối sống, các tiêu chuẩn hành vi càng ngày càng trở nên phức tạp. Các tiêu chuẩn và phong thái có tính chất khu trú càng ngày càng bị bẻ gẫy, nghiền nát, uốn mềm đi để phù hợp với tiêu chuẩn hội nhập. Hội nhập không phải là vấn đề chính trị mà là qui luật của đời sống hiện đại. Nhiều nhà lãnh đạo quốc gia đang xây dựng những quan hệ song phương rời rạc, trong khi đó điều cần thiết và không thể tránh khỏi là phải xây dựng quan hệ đa phương thống nhất. Tất cả mọi người đều phải xây đựng một tiêu chuẩn sống, tiêu chuẩn hành vi của mình trên cơ sở hình thành các quan hệ đa phương. Vì vậy, lối sống phải được xây dựng trên tiêu chuẩn đa phương chứ không phải song phương như trước đây nữa. Các chính phủ đang cố gắng ký được các hiệp định kinh tế song phương. Ký hiệp định hợp tác kinh tế, đó chính là cách thoả thuận các lối sống về kinh tế. Nhưng việc ký các hiệp định song phương khác với những tiêu chuẩn khác nhau sẽ tạo cơ hội để các quan hệ song phương xé nát đời sống xã hội. Để tự bảo tồn trong các quan hệ song phương, người ta phải có một số tiêu chuẩn cơ bản để ứng xử và tiêu chuẩn ấy phải không thiên vị với từng cặp quan hệ song phương. Trong thời đại chúng ta, con người không thể sắp xếp một cách nhân tạo để tạo ra yếu tố đa phương trong các quan hệ song phương. Các cặp quan hệ song phương có tính trội sẽ tạo ra tính chỉ huy trong việc hình thành các tiêu chuẩn đa phương của hành vi.
Lối sống của con người luôn luôn thay đổi theo không phải bao giờ cũng tích cực. Một ví dụ rõ nét nhất là ảnh hưởng của chủ nghĩa vật chất thái quá. Những hậu quả của tâm lý chạy theo lợi nhuận thật là trầm trọng đối với xã hội và đối với lối sống của con người nói chung. Tâm lý này làm đảo lộn các thước đo giá trị và làm rạn nứt các quan hệ xã hội Nói đến lối sống, người ta buộc phải nói đến một khái niệm kề cận là nhân cách.
Chúng ta thường xem nhân cách như một sở hữu cá nhân, thực ra tính chất sở hữu cá nhân của nhân cách chỉ là một yếu tố tương đối. Và nhân cách cũng chỉ là chịu sự chi phối của các tiêu chuẩn cộng đồng. Con người giáo dục lẫn nhau theo nghĩa rộng, người hiểu biết dạy người kém hiểu biết hơn bằng sự thông thái của mình, nhưng người kém hiểu biết cũng có thể thức tỉnh người thông thái. Giáo dục là kết quả của quá trình giáo dục lẫn nhau. Giáo dục chuyên nghiệp thực ra chỉ có nhiệm vụ trang bị cho người ta vũ khí, công cụ để nhận thức chứ chưa phải là quá trình nhận thức.
Nhiều người cho rằng lối sống cộng đồng bao giờ cũng bị chi phối bởi một lực lượng thống trị có thế mạnh, vì vậy lối sống cộng đồng thực ra xuất phát từ lối sống của một số ít cá nhân. Từ đó, do địa vị chính trị, do thế lực của mình, họ quyết định việc hình thành nên cái gọi là lối sống cộng đồng. Đó là một kết luận hết sức sai lầm. Thói quen cộng đồng là một khế ước không thành văn của các lực lượng xã hội.
Giai cấp thống trị có thể rất mạnh trong địa vị hành chính nhưng chưa chắc đã mạnh trong địa hạt của đời sống tình cảm là thứ chi phối thói quen cộng đồng không kém gì sức mạnh hành chính. Trên thực tế hầu hết các sức mạnh hành chính đều lần lượt thất bại trước đòi hỏi tự nhiên của đời sống tình cảm, đời sống tâm lý con người. Chúng ta không nên cường điệu quá đáng vai trò của lực lượng thống trị.
Các thế lực thống trị đều là những thế lực nhất thời, còn nhân dân và con người là vĩnh cửu. Không có gì để so sánh giữa lực lượng thống trị và con người nói chung được. Nếu chúng ta nghiên cứu vai trò của lực lượng thống trị thì thấy rằng họ cũng là con người, họ cũng được hình thành từ đời sống thông thường như tất cả chúng ta. Vậy những gì ảnh hưởng đến lối sống cá nhân? Theo tôi, tất cả những gì tương tác với một cá nhân đều ảnh hưởng đến lối sống của cá nhân ấy.
Nếu bỗng nhiên một ngày nào đó, bạn nói rằng công ty này hoặc nhân vật này ảnh hưởng một cách sâu sắc đến nhân cách hoặc lối sống của bạn thì đấy chỉ là một sự ngộ nhận, bởi vì có nhiều yếu tố trước đó đã tạo ra khả năng để bạn tiếp nhận ảnh hưởng trực tiếp ấy. Nếu không được chuẩn bị, ta không thể tiếp nhận được các ảnh hưởng. Giống như quá trình bồi đắp phù sa của các dòng sông: hạt lắng đọng trước làm nền cho hạt sau, trong cuộc sống con người, việc nhận thức cái nọ là tiền đề để nhận thức cái kia. Điều này diễn ra lâu dài, nói cách khác, các yếu tố ảnh hưởng đến nhân cách của một con người không chỉ là các đại lượng nằm trên một mặt phẳng, mà còn là các yếu tố theo thời gian.

Những cuốn sách kinh điển và văn hóa đọc hiện nay


Như Bình
“Muốn có văn hóa thì phải được giáo dục, định hướng, bồi dưỡng nhưng bạn đọc của ta hiện nay phần nhiều bối rối, bất lực và lạc lối giữa biển sách đủ loại, đủ màu sắc, hay-dở, tốt-xấu, thật -giả lẫn lộn”, dịch giả Đoàn Tử Huyến nói.
Cách đây 20 năm, trong 2 năm nằm trên giường bệnh, dịch giả Đoàn Tử Huyến (DG ĐTH) đã dịch kiệt tác “Nghệ nhân và Margarita” ủa một trong những nhà văn được đánh giá là lớn nhất và kỳ bí nhất của nước nga: Mikhail Bulgacov. Có thể nói, công trình dịch thuật lớn nhất và công phu nhất ông được in bằng tiếng Việt tại Nhà xuất bản Cầu Vồng ngay khi bắt đầu trào lưu Cải tổ ở Liên Xô và Đổi mới ở Việt Nam. Và sau 10 năm nữa nó được tái bản (trong Tuyển tập văn xuôi M. Bulgacov) với lượng in 1.000 bản, nhưng theo lời dịch giả lúc đó kiêm cả vai trò “đầu nậu” Đoàn Tử Huyến thì cuốn sách phải tiêu thụ trong vòng 10 năm mới hết.
Mới đây nhân kỷ niệm 65 năm ngày tác phẩm ra đời, Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông - Tây liên kết với NXB Lao Động tái bản kiệt tác này với hy vọng đưa một giá trị văn chương xuất chúng đến gần hơn nữa với bạn đọc Việt Nam, đặc biệt là bạn đọc trẻ tuổi.
Sự thật là chưa bao giờ sách được xuất bản và phát hành rộng rãi trên thị trường như hiện nay. Điều đó đã chứng tỏ, văn hóa đọc không hề chững lại, không hề mất đi trong đời sống kinh tế thị trường. Trái lại, xét ở một góc độ nào đó, con người sau khi đã bão hòa với văn hóa nghe nhìn, có vẻ như văn hóa đọc đang dần trở lại và ổn định trong sự phát triển của xã hội.
Điều chúng tôi muốn đề cập ở đây là số phận, vị trí của những cuốn sách quý, có giá trị trong đời sống văn hóa đọc hiện nay. Chúng tôi đã có cuộc trò chuyện với dịch giả Đoàn Tử Huyến - Chủ tịch Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông- Tây, nơi trong những năm qua đã tổ chức xuất bản nhiều cuốn sách có giá trị được bạn đọc ghi nhận về vấn đề này.
Thưa ông, có một sự thật là chưa bao giờ sách được xuất bản và phát hành rộng rãi như hiện nay, đi đâu ta cũng gặp sách: trong các nhà sách sang, trong những quán sách bụi, sách bày vỉa hè, sách lang thang bán dạo.... Nhưng mặt khác, ta lại cũng nghe không ít lời than rằng lớp trẻ ngày nay đọc sách quá ít, văn hóa đọc đang ngày càng tàn lụi, bị văn hóa nghe nhìn lấn lướt... Vậy thực chất của nghịch lí này là ở đâu?
- Có hiện tượng bề ngoài như thế, nhưng tôi không coi đây là nghịch lí. Quả là sách được in ra nhiều hơn, và số thời gian con người dành cho việc đọc ít đi, vì còn bao nhiêu thứ khác: truyền hình, báo chí, phim ảnh, ca nhạc... Nhưng tôi khẳng định rằng văn hóa đọc hiện nay vẫn tồn tại và thậm chí phát triển chứ không phải đang tàn lụi. Không phải căn cứ vào số lượng người đọc hoặc số thời gian đọc mà định giá văn hóa đọc, mà là qua chất lượng đọc, đọc cái gì, đọc như thế nào, đọc để làm gì. Bây giờ biểu tượng văn hóa đọc (người Việt) không phải là hình ảnh cậu bé cầm sách ngồi vắt vẻo lưng trâu. Đọc sách bây giờ có thể là những thư viện sang trọng, những cỗ máy tính (xách tay càng tốt)... Không cần phân định quá rạch ròi rồi e ngại văn hóa nghe nhìn. Mà quan sát thế giới, các nước tiên tiến Âu, Mỹ, xem văn hóa nghe nhìn của họ phát triển hơn mình rất nhiều, nhưng người ta vẫn đọc sách, văn hóa đọc của họ có mất đi đâu.
Thưa ông, Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông-Tây đưa việc xuất bản các loại sách có giá trị văn hóa cao của thế giới thành chủ trương hẳn hoi, và đã tiến hành bền bỉ gần chục năm nay, vậy có phải điều đó chứng tỏ độc giả hiện nay không hề quay lưng lại với những cuốn sách được xem là “nằm phủ bụi” trên giá sách của các thư viện?
- Chúng tôi là một tổ chức phi chính phủ tự nguyện đặt cho mình nhiệm vụ làm chiếc cầu nối nhỏ giữa các nền văn hóa Đông - Tây, giới thiệu tinh hoa văn hóa thế giới vào ViệtNam và ngược lại. Qua nhiều năm tồn tại và hoạt động trong những điều kiện khó khăn, chúng tôi đã và đang tổ chức xuất bản nhiều tủ sách, bộ sách triết học, văn hoá, lịch sử có giá trị, nhiều tác phẩm và tuyển tập tác phẩm của các nhà văn lớn trên thế giới.
Xin kể vài cuốn gần đây thôi: đó là “Hoàng Việt nhất thống dư địa chí” của Lê Quang Định, bộ sách quí được soạn vào đời Gia Long nhưng 200 năm rồi chưa được dịch và phổ biến rộng rãi; là “Siêu lý tình yêu”, những tác phẩm triết- mỹ chọn lọc của nhà triết học hàng đầu nước Nga V. Soloviev; là “Tủ sách Nobel Văn học” đến nay đã ra được ba cuốn là “Các nhà văn giải Nobel”, “Tuyển tập tác phẩm Y. Kawabata” (Nhật Bản) và “Tuyển tập tác phẩm Cao Hành Kiện” (Quốc tịch Pháp gốc Trung Quốc); là “Nghệ Nhân và Margarita” của M. Bulgacov, một trong những đỉnh cao nghệ thuật ngôn từ Nga do tôi dịch...
Hình như loại sách này Trung tâm của ông làm để cho sang trọng “tên tuổi” mình lên chứ thực tế nhìn những cuốn sách dày cộp, nặng vài cân, giá tiền hàng trăm ngàn đồng trở lên, thậm chí cả triệu, với những cái tên không phổ biến lắm, quả là rất “ khó đọc” và “khó bán”?
- Không phải thế đâu. Tôi tin rằng sức sống của những cuốn sách này sẽ mãi còn trong văn hóa đọc Việt Nam, dẫu đó không phải là những cuốn sách thuộc loại phổ biến rộng rãi trong bạn đọc. Đúng là những cuốn sách này chúng tôi chỉ in được với số lượng trên dưới 1.000 bản và phát hành chủ yếu vào các thư viện và cho các nhà nghiên cứu cùng những ai yêu thích và quan tâm.
Làm những bộ sách này chúng tôi chủ yếu muốn để những giá trị văn chương, học thuật, tư tưởng của cha ông cũng như của chung nhân loại, đến được tay bạn đọc đang cần tri thức mà trong thực tế còn chưa được quan tâm. Tuy nhiên, để “sống” được, bên cạnh loại sách này, chúng tôi còn bắt buộc phải làm loại sách có tính thương mại để kinh doanh. Có thế chúng tôi mới “nuôi” được bộ máy Trung tâm, thực hiện được chủ trương chính là xuất bản những cuốn sách cao cấp mà khó bán khác. Cái khó của chúng tôi là làm thế nào để cân bằng được hai thái cực này.
Ví như cuốn “Nghệ Nhân và Margarita”, nghe nói 10 năm trước đây ông in 1.000 cuốn và bán mãi không hết. Bây giờ ông lại tái bản và toàn bộ nhuận bút ông lấy bằng sách để tặng cho tất cả những ai thích đọc. Có phải ông làm như vậy vì văn hóa đọc, hay vì ông... thích cho cá nhân ông?
- Tôi mong đưa được tác phẩm này đến gần hơn nữa với bạn đọc Việt Nam, nhất là bạn đọc trẻ, thế hệ mà tôi hy vọng dễ dàng tiếp cận với nó hơn. Đáng buồn là sau 20 năm cuốn sách có mặt ở Việt Nam, tôi vẫn chưa được đọc một bài phê bình, chứ chưa nói đến một công trình nghiên cứu nào bằng tiếng Việt viết về nó cả. Thực tế là cuốn sách này khó đọc.
Có thể nói, tôi đã tặng bạn đọc tiếng Việt nói chung một bản dịch khá công phu của tôi, và giờ đây tôi sẵn sàng tặng cả phần “vật liệu” làm nên ấn phẩm này cho những người cụ thể mong muốn đọc nó. Đương nhiên, cho tất cả mọi người như chị nói thì không thể, nhưng một số thì... không có vấn đề gì! Tôi làm như vậy là vì tôi thích, nhưng tôi thích có thêm nhiều người đọc được tác phẩm hay, và như vậy lại chính là vì văn hóa đọc.
Ông cho rằng cần phải có một sự định hướng cho bạn đọc, và có cách để nâng cao dần trình độ bạn đọc, nhất là thế hệ trẻ, giúp họ tiếp cận được những cuốn sách kinh điển?
- Đây là điều tôi muốn nói tới. Trong mọi lĩnh vực quản lí và tổ chức các hoạt động xã hội, vai trò của nhà nước là hết sức quan trọng. Hoạt động văn hóa đọc cũng vậy. Xã hội tri thức cần phải có các tổ chức, cơ quan làm nhiệm vụ định hướng cho bạn đọc tìm đến với những cuốn sách hay, sách có giá trị, sách cần cho mọi người, mỗi người.
Ở Việt Nam ta, nói một cách nghiêm khắc, việc xuất bản sách tốt, phát hành và đọc sách tốt đang bị thả nổi, gần như tự phát hoàn toàn. Về xuất bản chắc là một câu chuyện khác, ở đây tôi chỉ nói về việc đọc, hay như chị nói, văn hóa đọc. Muốn có văn hóa thì phải được giáo dục, định hướng, bồi dưỡng chứ. Bạn đọc của ta hiện nay phần nhiều bối rối, bất lực và lạc lối giữa biển sách đủ loại, đủ màu sắc, hay-dở, tốt-xấu, thật -giả lẫn lộn.
Ở các nước văn minh từ hàng trăm năm nay đã có những cơ quan ngôn luận, những tạp chí giới thiệu sách rất đáng tin cậy, do những chuyên gia có uy tín phụ trách. Sách của họ chắc chắn nhiều hơn của ta, nhưng người đọc nhờ đó mà dễ dàng tìm được cái mình cần. Còn ở ta, nói đúng ra không phải không có những cơ quan có chức năng, tôn chỉ như vậy, nhưng được thực hiện bởi những bàn tay nói thẳng ra là chưa đáng tin cậy hoặc là về trình độ, hoặc là về trách nhiệm. Xuất bản, phát hành sách phải là văn hóa, đọc sách là tìm đến văn hóa, còn định hướng cho người ta đến với văn hóa thì càng phải có văn hóa cao. Nhưng thử hỏi bạn đọc về mấy tờ tạp chí Sách của Việt Nam xem...
Mới đây có một sự kiện lý ra đáng mừng, có thể “tôn vinh văn hóa đọc”, “tôn vinh giá trị cao quí của sách Việt Nam”, là lễ trao giải Sách Việt Nam lần thứ nhất, nhưng người ta đã thực hiện tùy tiện, để rồi rồi chìm nghỉm, chẳng để lại tiếng vang, chẳng giúp ích gì cho văn hóa đọc...

Quan Điểm của Mr. Bill Gate về đại dịch chinese virus

Quan điểm của Bill Gate: virus Corona / Covid-19 thực sự dạy chúng ta điều gì? Xuất sắc... Tôi là một người tin tưởng mạnh mẽ rằng có ...