Bùi Văn Nam Sơn
Hai cha con ông chủ một quán phở gia truyền nổi tiếng không đồng ý
với nhau: người cha muốn chỉ tiếp tục bán phở thôi; người con, có óc năng động,
muốn bổ sung thêm mấy món điểm tâm nữa. Nhưng, “bổ sung” tới mức độ nào thì
quán phở vẫn còn là quán phở?
Hai
cha con vô hình trung đụng đến một trong những câu hỏi quan trọng nhất và cũng
nhức đầu nhất của triết học: cái gì khả biến, cái gì bất biến? Cái gì làm nên
bản chất của một sự vật? Triết học, từ thời cổ đại, cũng xuất phát từ kinh
nghiệm đời thường: cái cây vẫn là cái cây dù mùa thu làm rụng lá. Chặt cái cây
tới mức nào thì nó vẫn có thể hồi sinh? Cưa tận gốc thì tuy vẫn còn bộ rễ nhưng
không còn là cái cây nữa. Cái cây đã bị phá huỷ tận “bản thể” của nó.
Con người
cũng vậy. Xem lại tấm ảnh lúc tuổi thơ, ta nhận ra đó là “tuổi thơ của mình”
chứ không phải của một đứa trẻ khác. Chừng nào mình còn xưng “tôi” là còn muốn
nói đến cái gì không thay đổi, không thể lẫn lộn, dù tóc đã phai màu! Lập tức,
ta vấp ngay một khó khăn: cái thực sự tạo nên sự vật thì không thể dùng mắt để
nhìn mà phải dùng đầu để suy nghĩ. Nhưng, suy nghĩ từ cái gì? Cũng phải từ
những gì mắt thấy tai nghe! Những gì mắt thấy tai nghe đều là khả biến, vô
thường, vậy có thể xem những gì khả biến, vô thường là bản chất của sự vật? Nói
thế cũng có nghĩa là sự vật không hề có bản chất! Song, thực tế cãi lại: khi
mua một món hàng, ta muốn mua một món hàng thật, dù “cái thật” ấy ẩn sâu trong
món hàng, khó nhận thấy. Gia đình, xã hội cũng thế. Sống trong một gia đình,
một tổ chức, một xã hội, đâu phải ai lo phận nấy mà còn có một mục tiêu chung.
Khi mục tiêu này mất đi, gia đình, tổ chức, xã hội không còn là chính nó nữa.
Vậy, ta phải có ý thức về một cái bản thể thường tồn thì mới có thể nhận ra lúc
nào nó bị đe doạ chứ? Hai cách đặt vấn đề tương phản như thế làm các triết gia
điên đầu trong hơn hai ngàn năm nay!
Ở
phương Tây, Aristoteles là người nỗ lực giải quyết vấn đề này. Ông khẳng định:
bản chất của sự vật là bản thể của nó. Vậy bản thể là gì? Là cái gì “nằm bên
dưới” sự vật, là cái gì bền vững mà nếu không có nó, không còn sự vật nữa. Hãy
thử đọc hai cặp lục bát sau đây trong Truyện Kiều theo kiểu… triết học:
(1) Thuý Kiều sắc
sảo, khôn ngoan
Vô duyên là phận hồng nhan đã đành
Vô duyên là phận hồng nhan đã đành
(2) Thịt da ai cũng là
người
Lẽ nào hồng rụng thắm rời chẳng đau!
Lẽ nào hồng rụng thắm rời chẳng đau!
Câu
(1) cho biết cô Kiều là như thế nào. Nhưng, các đặc điểm ấy không ổn định (cô
Kiều có khi cũng… dại dột!) và nhất là, không thể tồn tại độc lập mà không gắn
với cô Kiều. Chúng có thể thay đổi, nghĩa là, không nhất thiết cứ như thế mãi
(hậu vận cô Kiều đâu có… vô duyên!). Vì thế, Aristoteles bảo: Thuý Kiều (như
là cái gì cá biệt) là bản thể, còn “sắc sảo, khôn ngoan, vô duyên…” là những
tuỳ thể (accidents, từ nghĩa gốc là ngẫu nhiên, tình cờ). Nhưng câu (2) thì
khác, con người không thể lúc thì có “thịt da”, lúc thì không. Vậy nó nói lên
con người là gì. Cái không thể thay đổi ấy được gọi là những thuộc tính. Thuộc
tính thì tất nhiên không tồn tại độc lập, nhưng những thuộc tính nào thuộc về
bản chất của sự vật thì cũng là bản thể, thậm chí còn là bản thể theo nghĩa cao
hơn cả những sự vật cá biệt. Vậy, theo Aristoteles, ta có hai loại bản thể: cái
cá biệt (Thuý Kiều) và cái phổ biến (“thịt da”, “người”…) Ông gọi cái trước là
bản thể số một, cái sau là bản thể số hai. Tưởng xong, nhưng rồi lại thấy không
ổn! Việc phân biệt ấy chẳng rõ ràng chút nào. Khi Thuý Kiều khen Từ Hải: “Rằng:
Từ là đấng anh hùng!”, thì nếu rút bỏ thuộc tính “anh hùng” đi, có còn là Từ
Hải hay chỉ là một người trùng tên?
Platon,
thầy của Aristoteles, làm ngược lại; ông chỉ quan tâm đến một phương diện thôi.
Chỉ có cái phổ biến (“người”, “thịt da”, “sắc sảo”, “khôn ngoan”…) mới là những
cái duy nhất có thật. Ông là tổ sư của thuyết duy tâm khách quan, vì theo ông,
những cái phổ biến ấy là thuần tuý, hoàn hảo, mẫu mực chứ không nhếch nhác khi
trở thành những thuộc tính ở trần gian, vì thế, chúng ở một thế giới khác,
trong khi những sự vật cá biệt trên thế gian này chỉ là những bản sao tồi tàn,
mờ nhạt của chúng.
Thomas
Aquino, đại triết gia Kitô giáo thời Trung cổ, đồng ý với Aristoteles là phải
xuất phát từ những sự vật và bản thể trên trần gian này, nhưng cần tìm cho
chúng một nền tảng sâu hơn. Theo ông, không phải ngẫu nhiên khi sự vật có một
bản chất, tức có bản thể bền vững. Đó là nhờ có thượng đế. Nếu không có thượng
đế và ý chí bền vững của Ngài để sáng tạo và duy trì thế giới này, tất cả đều
tan rã hết.
René
Descartes, cha đẻ của triết học cận đại, cũng dành cho thượng đế một chỗ đứng
đặc biệt, nhưng có chỗ khác với Aquino. Theo ông, chỉ duy nhất thượng đế mới có
bản thể vĩnh hằng theo nghĩa tuyệt đối, còn toàn bộ thực tại chia làm hai loại
bản thể: bản thể có quảng tính (vật chất) và bản thể có tư duy (tinh thần). Nơi
con người cũng thế: ngày nay, ta đi đến bác sĩ để khám bệnh và đi đến trường để
học, chứ không đến cùng một nơi là nhờ có… Descartes!
Sống trong một gia đình, một tổ chức, một xã hội, đâu phải ai lo
phận nấy mà còn có một mục tiêu chung. Khi mục tiêu chung này mất đi, gia
đình, tổ chức, xã hội không còn là chính nó nữa
|
Descartes
gặp một đối thủ có hạng: Gottfried Wilhelm Leibniz. Leibniz bảo rằng chính
những “đơn tử” (monad) mới tạo nên bản chất của sự vật. Nó “không có cửa sổ”,
nghĩa là không thể nhìn vào bên trong nó, nó tự tồn và không có gì bên ngoài làm
thay đổi nó được. Quan trọng hơn, đơn tử có lực! Lực khổng lồ nữa là khác.
Không cần phải là nhà vật lý nguyên tử, ta cũng tin vào sức mạnh của năng lượng
nằm bên trong lòng sự vật. Chỉ cần nhìn một đội bóng đang vùng lên là đủ nhận
ra cái gì thúc đẩy nó, đồng thời đó cũng là nguồn năng lượng của nó.
Immanuel
Kant thấy các khẳng định của Descartes, Leibniz nghe thì hay nhưng không thể
kiểm chứng được, nên cho rằng bản thể là cái gì chỉ hiện hữu trong đầu óc con
người như một phạm trù để suy nghĩ về sự vật thôi, còn bản chất của sự vật là
điều không thể nhận biết được.
G.
W. F. Hegel nghĩ đến quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng: hiện tượng
là gì nếu nó thiếu đi cái bản chất; bản chất là gì nếu nó không trình hiện ra?
Edmund
Husserl cho rằng, đối với con người, không có cái bản chất nào ẩn giấu đằng sau
sự vật cả, tất cả đều là những gì trình hiện cho ta, nên triết học của ông được
gọi là hiện tượng học. Từ đó, Jean Paul Sartre, một trong những ông tổ của chủ
nghĩa hiện sinh, cho rằng hiện hữu của con người có trước bản chất. Xác định
trước một bản chất, là hạn chế sự tự do chọn lựa của con người! Đối với các
triết gia Anh, nhất là David Hume, John Locke, chỉ có những gì tri giác được,
đo đếm được mới có thực. Một tư tưởng được thời đại bấy giờ hoan nghênh, vì nó
hoàn toàn tương hợp với phương pháp của khoa học tự nhiên thời cận đại.
Ở
thế kỷ 20, triết học và khoa học luận tìm cách thay thế khái niệm bản thể/bản
chất quá trừu tượng bằng khái niệm chức năng. Lý thuyết hệ thống cũng vậy: sự
vật được xác định không phải từ bản chất của nó, mà từ chức năng của nó trong
một hệ thống nhất định.
Nhưng,
nhiều người vẫn chưa trọn tin vào lý thuyết ấy. Họ vẫn cứ thành tâm hướng đến
một cái gì siêu việt hơn đời thường, và… cha con ông chủ quán phở vẫn cứ tiếp
tục tranh luận.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét