Thứ Năm, 19 tháng 7, 2012

Giáo dục nhân bản


MỤC LỤC
bài 1. TẦM QUAN TRỌNG CỦA GIÁO DỤC NHÂN BẢN           01
bài 2. HỌC TẬP CHỮ CẦN                                                  03
cần mẫn - cần lao -  chú ý
bài 3. HỌC TẬP CHỮ KIỆM                                                07
tiết kiệm tiền của - sức khỏe - thời giờ
bài 4. HỌC TẬP CHỮ LIÊM                                                12
thanh liêm - trong sạch tâm hồn và thể xác  
bài 5. HỌC TẬP CHỮ CHÍNH                                             15
chính trực - công bằng - tuân phục
bài 6. HỌC TẬP CHỮ TRÍ                                                    19
trật tự - phương pháp - tổ chức
óc sáng suốt - trí phán đoán - sáng kiến
bài 7. HỌC TẬP CHỮ TÍN                                                    28
chân thành - trung tín - tự tin - tinh thần trách nhiệm
bài 8. HỌC TẬP CHỮ DŨNG                                              33
tự chủ - cương nghị - nhẫn nại
bài 9. HỌC TẬP CHỮ NHÂN                                              38
đức yêu người
tư cách lịch sự                                                              42     
giao tế lịch thiệp                                                          51
phụ lục 1:
phương pháp tự luyện của Benjamin Franklin               62
phụ lục 2:
thư của tổng thống Lincoln
gửi thầy giáo của con trai                                           66

BÀI 1. TẦM QUAN TRỌNG CỦA
GIÁO DỤC NHÂN BẢN
I.       GIÁO DỤC NHÂN BẢN LÀ GÌ?
Giáo dục nhân bản nói cách khác là học làm người. Đó là môn học giúp cho chúng ta trở nên những con người trưởng thành về tinh thần cũng như thể chất, nhờ đó chúng ta có thể dễ dàng thành đạt trong đời sống xã hội thường nhật, cũng như cuộc sống tâm linh, qua việc tập luyện các đức tính căn bản tốt đẹp mà mỗi người cần phải có.
II.   CÁC ĐỨC TÍNH NHÂN BẢN ĐÓ LÀ GÌ?
Tất cả những gì giúp con người dung hòa giữa tinh thần và thể chất, giữa lý trí và bản năng hạ đẳng, giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội... đều có thể được coi là đức tính nhân bản; tuy nhiên, chúng ta có thể tóm lại trong tám đức tính lớn phù hợp với tâm trạng và xã hội Việt nam là:
CẦN – KIỆM – LIÊM – CHÍNH
TRÍ – TÍN – DŨNG – NHÂN.
III.            TẦM QUAN TRỌNG CỦA GIÁO DỤC NHÂN BẢN:
Nhà văn Aldous Huxley có viết: ”Làm một người đầy đủ, điều hòa là một việc khó khăn, nhưng đó là công việc duy nhất của chúng ta. Người ta chỉ xin chúng ta một điều duy nhất là nên một người: Một người, anh nghe rõ”.
LÀM NGƯỜI, đó là mục tiêu trên hết và sau cùng của cuộc sống này. Dù không có một đồng trong tay nhưng nếu ta là một con người trưởng thành, thì ta đang là người giầu có nhất, hạnh phúc nhất, còn nếu ta không thể trở nên một con người theo đúng ý nghĩa cao đẹp nhất của từ ngữ đó,... ta đã đánh mất tất cả.
Một thi sĩ có một tập thơ nhan đề “Ta đã làm chi đời ta?”, để nói lên cái ý thức sâu sắc của ông về trách nhiệm của một con người đối với cuộc sống của chính mình. Có lẽ sẽ không có lời than thở nào đáng sợ cho bằng sự đau đớn của người đến phút cuối cùng của cuộc đời mới bàng hoàng nhận ra mình đã đánh mất chính mình, đánh mất cuộc đời: “Ta đã làm chi đời ta?”.
Trái lại, không có niềm vui nào lớn lao hơn niềm vui của người dám từ bỏ tất cả lạc thú, vinh sang, miễn là sống sao cho xứng danh một con người, một người con Chúa, vì “được cả thế gian mà mất nước Thiên đàng nào có ích chi?” (Mt 11,26).
IV.  PHƯƠNG PHÁP HỌC LÀM NGƯỜI:
Có hai phương pháp thực tế giúp chúng ta học làm người
            1.  Phương pháp của BENJAMIN FRANKLIN:
Benjamin Fraklin thiết lập một bảng danh sách gồm 13 đức tính. Ông bảo rằng ông không có tham vọng thực hiện tất cả 13 đức tính ấy cùng một lúc, trái lại, ông chú trọng từng đức tính một.
Khi nào nắm vững được một đức tính rồi, ông mới bắt đầu rèn luyện sang đức tính khác, và cứ như vậy lần lượt cho đến khi đạt được tất cả 13 đức tính. Quyết định thực tập như vậy rồi, ông còn nỗ lực tự kiểm hằng ngày.
Phương pháp tự luyện của ông gồm có 3 nét đặc thù là: cá thể, tiệm tiến và kiểm tra hằng ngày.
            2.  Phương pháp của linh mục Gaston Courtois:
Linh mục Gaston Courtois là một nhà giáo dục thời danh của giới công giáo Pháp, lại chủ trương một phương pháp như sau:
-         Xét về phương diện cá thể: Chú trọng việc suy niệm về một đức tính, hầu làm cho nó nhập nhiễm vào trí óc; rồi mới tự vấn lương tâm xem mình đã, đang và sẽ thực tập đức tính đó như thế nào. Đồng thời, cổ võ lòng hăng say bằng việc đọc gương các thánh nhân hay danh nhân để biết các vị ấy đã thực hành các đức tính đó như thế nào. Và cuối cùng đem ra thực hành.
-         Xét về phương diện tập thể: Thảo luận từng nhóm nhỏ sẽ làm triển nở những quan niệm mới mẻ, sâu sắc và thực tế về cách thực hành một đức tính.


BÀI 2. HỌC TẬP CHỮ CẦN
cần mẫn - cần lao -  chú ý
I. CẦN MẪN
            1. Thế nào là cần mẫn?
Người cần mẫn, hay chuyên cần, là người siêng năng, ham làm việc và làm kỹ lưỡng đến nơi đến chốn.
            2. Nghịch với đức cần mẫn là gì?
Nghịch với đức cần mẫn là tính lười biếng: đó là những người ham ở nhưng, sợ công việc, sợ khó nhọc, nhất là sợ việc bổn phận, việc đạo đức...
Tính lười biếng biểu lộ ra ngoài qua thái độ ơ hờ, trễ nải, lừng khừng, không thiết tha với công tác, hoặc có làm thì cẩu thả, làm lấy có, lấy rồi.
            3. Làm thế nào để tập tính cần mẫn?
a.      Để tập tính cần mẫn, ta phải năng suy niệm và tự nhủ:
-         Làm việc là luật chung của trời đất, “Chim có cánh để bay, người có tay để làm”.
-         Có làm việc, các tài năng của ta mới có dịp phát huy.
-         Có làm việc, các nhu cầu mới được thỏa mãn.        
-         Kẻ lười biếng thường mắc nhiều tật xấu, vì  “nhàn cư vi bất thiện”.
-         Thế giới chưa đổi mới vì người ta còn quan niệm một sự thánh thiện ngoài bổn phận.
b.      Luyện tập làm việc từ dễ đến việc khó, từ nhỏ đến lớn.     
II. CẦN LAO:
            1. Lao động là gì?
Có một thời người ta hiểu sai lầm, coi lao động là bần tiện và khinh chê lao động. Nhưng hiểu cho đúng thì lao động là việc có ý thức của con người để làm chủ và biến cải thiên nhiên thành những giá trị tinh thần hay vật chất cần thiết cho xã hội. Hiểu như thế lao động là một hành vi đáng quí và mang ý nghĩa sống còn đối với cuộc sống con người.
            2.  Có mấy loại lao động?
Có hai loại lao động: Lao động chân tay và lao động trí óc. Tuy phân chia như thế, nhưng thực ra mọi công việc lao động đều có cả chân tay và trí óc. Người ta chỉ tuỳ theo sự vận dụng tay chân hay trí óc nhiều hơn để phân chia mà thôi.
Lao động chân tay và trí óc đều cần thiết cho xã hội, nên cần kết hợp chặt chẽ với nhau để sản sinh ra ngày càng nhiều của cải vật chất và tinh thần cho xã hội.
            3.  Giá trị của lao động là gì?
a.      Giá trị tự nhiên:
Con người lao động trước hết là để mưu sinh. Nhưng ngoài mục đích mưu sinh, người ta còn lao động để đạt tới những giá trị văn hóa cao hơn hầu phát triển cuộc sống nên tốt hơn và đẹp hơn, trong những lao động nghệ thuật, khoa học, kỹ thuật...
Ngoài hai mục đích mà con người muốn đạt tới khi lao động nói trên, lao động còn giúp cho con người:
-         Trưởng thành hơn về quan điểm: Biết dung hòa quan điểm với tha nhân .
-         Rèn luyện nhiều đức tính tốt khác như: chuyên cần, trách nhiệm, tiết kiệm, đoàn kết, bác ái và vị tha, óc sáng tạo, óc tổ chức...
b.      Giá trị siêu nhiên của lao động:
Trước đây, lao động thường bị coi là hình phạt con người phải chịu do tội tổ tông. Nhưng thực ra nguyên tổ loài người đã lao động từ trước khi họ phạm tội: ”Yavê Thiên Chúa đã đem con người đặt trong vườn Eđen để họ canh tác và giữ vườn” (St 2,15). Do đó, ta hiểu rằng cái mà tội lỗi đem đến không phải là lao động, mà là tính cách cực nhọc vất vả của nó: ”mồ hôi đẫm mặt, người ta mới có bánh ăn” (St 3,19). Còn lao động tự nó luôn là điều tốt và mang lại hai giá trị siêu nhiên, là qua lao động mà chúng ta được mời gọi
-         cộng tác với Thiên Chúa trong việc tác tạo thế giới.
-         góp phần cứu rỗi chính mình và thế giới.
III. CHÚ Ý:
            1. Chú ý là gì?
Chú ý là sự tập trung mọi hoạt động của tinh thần vào một đối tượng nội giới hay ngoại giới.
            2. Có mấy loại chú ý?
Tùy theo đối tượng hay bản tính mà chú ý được chia thành nhiều loại như sau:
a.      Chú ý ngoại giới: là sự tập trung tinh thần hướng về đối tượng nằm ngoài bản thân ta, nhờ các giác quan.
b.      Chú ý nội giới: là sự tập trung tinh thần vào một đối tượng nằm trong lòng ta (một tri thức hay một tình cảm...).
c.      Chú ý tự phát: là sự tập trung tinh thần được phát khởi do bị đối tượng thúc bách, hấp dẫn.
d.      Chú ý cố tạo: là sự tập trung tinh thần do quyết định của chủ thể, như một học sinh cố gắng học một bài khó, dù không thích...
            3.  Lợi ích của sự chú ý là gì?
a.      Trong việc học hành: sự chú ý giúp cho tâm trí lĩnh hội đầy đủ và mau lẹ bài học. Học mà không chú ý thì cũng như ăn mà không tiêu hóa vậy, chẳng bổ ích gì.
b.      Trong việc làm: có chú ý ta mới chuyển được những ý nghĩ thành hành động hữu hiệu.
c.      Trong việc đạo đức: chú ý giúp ta tránh được chước cám dỗ và tập luyện được nhiều đức tính tốt.
            4.  Nếu xấu nghịch với sự chú ý: chia trí, lo ra
a.      Chia trí, lo ra là gì?
-         Chia trí là miệng nói chuyện này mà trí lại nhớ chuyện khác hoặc tay làm việc này mà lòng nghĩ đến việc kia,
-         Lo ra là lắng lo ngoài chuyện phải chú ý.
b.      Có mấy loại chia trí? Có hai loại:
-         Chia trí vô tình: chia trí khi mình không muốn, mặc dù đã gắng sức chống trả sự chia trí. Sự chia trí này không làm giảm giá trị của lời cầu nguyện.
-         Chia trí cố tình: là sự chia trí mà mình không muốn rời bỏ nguyên nhân gây chia trí, hay chỉ chống trả cách ươn hèn. Sự chia trí này làm cho việc cầu nguyện bị kém giá trị và có thể nên tội với Chúa.
            5.  Phải tập luyện đức tính chú ý như thế nào?
a.      Cách tiêu cực:
Phải triệt để bài trừ tất cả mọi tư tưởng tản mác về những việc không phải là việc ta đang làm. Có thể đó là những tư tưởng xấu, như cách trả thù; hay những tư tưởng không đâu, như tai nghe giảng mà lòng nhớ đến trò chơi ở nhà... Ngay khi ý thức mình đang chia trí, ta hãy quay trở lại với điều mình đang thực hiện.
b.      Cách tích cực:
-         Tập sống giây phút hiện tại: “Chỉ giây phút hiện tại là quan trọng nhất”.
-         Tập thói quen chuẩn bị trước khi vào việc: có mặt trước giờ lớp, thinh lặng khi đến hiên nhà thờ...
-         Chỉ làm một việc mà thôi và làm cho tận tình, bắt chước con cá măng chỉ đuổi theo một con mồi cho đến được. ĐGH Gioan XXIII viết trong nhật ký: “Tôi đặc biệt nhấn mạnh và theo nguyên tắc này: là làm kỹ mỗi việc, mỗi kinh, giữ mỗi giờ như là chỉ có bấy nhiêu đó thôi. Chúa sinh ra tôi chỉ vì một việc tôi đang làm mà thôi, việc đó làm xong hẳn hoi là đủ nên thánh, không cần lo nghĩ đến việc trước hay việc sẽ đến sau đó”.


            BÀI 3. HỌC TẬP CHỮ KIỆM
tiết kiệm tiền của - sức khỏe - thời giờ
A. TỔNG QUÁT:
            1. Tiết kiệm là gì?
     Tiết là giảm bớt, hạn chế lại.
     Kiệm là dành dụm, không hoang phí xa hoa.
     Tiết kiệm là bạn biết dùng đúng mức, biết tiêu pha dè sẻn, không hoang phí xa hoa.
            2. Ta phải tiết kiệm những gì?
     Ta phải tiết kiệm trong việc tiêu dùng những tài sản Thiên Chúa ban cho chúng ta, là tiền của, sức khỏe, thời giờ.
            3. Nết xấu nghịch với tính tiết kiệm: Lãng phí.
     Lãng phí có nhiều cách:
-         Lãng phí sức lao động: vì kém tinh thần trách nhiệm, vì tổ chức vụng về mà lãng phí sức lao động, như mất nhiều công sức cho một việc chỉ cần ít người làm.
-         Lãng phí thời giờ: chỉ do thiếu chuẩn bị, thiếu tổ chức... mà phải kéo dài ra đến mấy ngày cho một việc chỉ cần làm trong một ngày, một buổi.
-         Lãng phí sức khỏe, tiền của do thiếu hiểu biết, hay liều lĩnh.
B. TIẾT KIỆM TIỀN CỦA:
            1. Tiền bạc:
a.      Tiết kiệm tiền bạc là thế nào?
-         Là đừng “vung tay quá trán”: ăn tiêu quá độ, làm ít xài nhiều, vay công lĩnh nợ để sắm sửa ăn xài. Tóm lại, đừng tiêu xài quá khả năng kiếm được.
-         Là tiêu xài điều độ, định số chi theo số thu, chỉ dùng đồng tiền vào những nhu cầu thực sự, và biết để dành, phòng lúc túng thiếu.
b.      Có cách nào giúp ta thực hành tiết kiệm không?
Có những nguyên tắc, nếu giữ đúng, sẽ giúp ta tiết kiệm một cách rất hiệu quả. Đó là:
-         Không mua những gì chưa thực sự cần, dù giá rẻ.
-         Không mắc nợ nếu không thực cần thiết.
-         Lập sổ thu chi minh bạch, ghi chép kiểm tra hằng ngày.

            2. Của cải:
a.      Của cải là gì?
Của cải là những vật dụng chúng ta sử dụng để sinh sống hằng ngày như nhà cửa, ruộng đất, quần áo, điện nước, sách vở, xe cộ...
Có của chung như đường xá, công sở,... và có của riêng như quần áo, sách vở mỗi người...
b.      Ta phải tiết kiệm của cải như thế nào?
-         Tránh lối suy nghĩ: của chung không cần giữ.
-         Chỉ dùng khi cần, điện nước phải khóa lại sau khi dùng.
-         Tránh làm hư hỏng đồ dùng do sử dụng cẩu thả. Hãy nhớ câu: “Của bền tại người”.
-         Tránh những thói quen xấu: vẽ vạch trên bàn học, ghế nhà thờ, nơi du lịch; bẻ hoa cảnh, xả rác bừa bãi.
C. TIẾT KIỆM SỨC KHỎE:
     Sức khỏe là tài sản quí nhất của mỗi người, bí quyết bảo vệ sức khỏe là sự điều hòa. Muốn cơ thể hoạt động điều hòa, ta cần:
-         Tiết độ trong việc ăn uống, ngủ nghỉ, làm việc, giải trí.
-         Tập luyện cơ thể.
-         Di dưỡng tính tình.
            1.  Sống điều độ:
a.      Về ăn uống:
-         Chỉ ăn những thức lành mạnh, có sinh tố. Khi ăn cần nhai kỹ để giúp bộ máy tiêu hóa làm việc dễ dàng.
-         Tránh gia vị mạnh, rượu mạnh, có hại cho việc tiêu hóa. Thuốc lá không bao giờ có lợi cho sức khỏe.
b.      Về ngủ nghỉ:
-         Ngủ nghỉ đúng giờ giúp cơ thể thư giãn tốt, bài tiết chất độc.
-         Tránh thức khuya, ngủ nướng là hai thứ chỉ làm mệt cho cơ thể mà thôi. Thức trắng đêm đánh bài là đang tự đầu độc, tự làm giảm thọ.
c.      Về việc làm:
-         Làm việc chừng mực, đều đặn theo thời khóa biểu.
-         Đừng để nước đến chân rồi mới học cố, làm cố, uống cà phê để thức khuya học bài rồi thi xong là ốm.
            2. Tập luyện thân thể:
Hằng ngày nên đều đặn tập luyện thân thể bằng các môn thể dục thể thao, vừa giúp giải trí và thư giãn vừa rèn luyện sức khỏe.
            3.  Di dưỡng tính tình.
a.      Di dưỡng tính tình là gì?
Là tập luyện cho tinh thần được bình thản trước những kích thích của ngũ quan và những tình cảm xấu, như lo buồn, giận hờn, ghen ghét, oán thù, sợ hãi...
b.      Tại sao phải di dưỡng tính tình?
Di dưỡng tính tình là việc rất cần thiết, vì tinh thần có ảnh hưởng rất lớn trên thể chất. Phiền muộn, lo sợ, ghen ghét, oán thù đều có hại cho sức khỏe. Chúng làm mệt óc, nhói tim, nhức đầu khó tiêu, mất ăn mất ngủ...
c.      Làm thế nào để di dưỡng tính tình?
Muốn di dưỡng tính tình, ta phải tập luyện cho mình:
-         Đức Ái: Yêu thương hết mọi người, kể cả những kẻ thù oán hay làm hại mình nữa; không giận hờn, ghen ghét một ai.
-         Đức Điềm đạm: Bình tĩnh trước mọi biến cố may rủi, mọi kích động... để tìm ra phương án tối ưu. Châm ngôn tạo sức khỏe và hạnh phúc là đừng bao giờ hấp tấp, không bao giờ lo lắng.

D. TIẾT KIỆM THỜI GIỜ
            1.  Đúng giờ là gì?
Là giờ nào việc nấy, mỗi công việc phải có một thời giờ qui định và phải lo sắp xếp sao cho công tác được thực hiện đúng vào thời gian của nó.
            2.  Đúng hẹn là gì?
Là ta đã kết ước với ai đó sẽ làm việc gì vào lúc nào thì ta có nghĩa vụ phải thực hiện đúng y như thế.
            3.  Lợi ích của tính đúng giờ và đúng hẹn:
Thói quen đúng giờ và đúng hẹn là một cách tự trọng, một thái độ lễ phép đối với người mời ta và với những người cùng được mời. Đúng giờ là bác ái.
            4.  Nết xấu nghịch với tính đúng giờ là gì?
Là sự trễ nải, đến trễ về sớm, hoặc không giữ đúng điều đã kết ước.
            5. Tai hại của sự trễ nải là gì?
Người không đúng giờ gây hại cho cả mọi người và chính mình:
-         Cho mọi người: một phút trễ giờ làm cho công việc của mọi người phải hoãn lại một phút.
-         Cho chính mình: người thường trễ giờ cũng tự làm mất sự tín nhiệm của mọi người nơi mình.
            6.  Bí quyết giữ đúng giờ đúng hẹn:
a.      Có thời khóa biểu: mỗi giờ trong ngày đều được bố trí vào những công tác mạch lạc, hợp lý và giữ nghiêm túc.
b.      Có sổ Agenda để ghi những việc phải làm.
c.      Có sắp xếp, chuẩn bị trước cho những công việc quan trọng. Sách Trung Dung có câu: “Phàm việc gì, có sắp xếp trước thì thành tựu, chẳng dự bị thì hỏng hết. Lời nói định trước thì không khốn quẩn, nết hạnh định trước thì khỏi lỗi lầm”.
                         



BÀI 4. HỌC TẬP CHỮ LIÊM
thanh liêm - trong sạch tâm hồn và thể xác  
I. THANH LIÊM
            1.  Thanh liêm là gì?
Thanh là trong sạch, sáng sủa.
Liêm là ngay thẳng không tham.
Người thanh liêm là ngưòi trong sạch, liêm khiết, không hối lộ của dân, không ăn gian của công; trái lại, “tâm bất cầu lợi”, luôn tôn trọng và gìn giữ của công và của người khác.
Thanh liêm là một đức tính rất cần cho những người có trách nhiệm cầm đầu trong xã hội, như linh mục Gaston Courtois đã giải thích như sau: “Thanh liêm, một đức tính ít gặp, nhưng rất cao quí, vì nó là vàng ròng để rèn đức tâm hồn vị thủ lãnh chân chính”.
            2.  Lỗi nghịch với đức thanh liêm.
-         Hối lộ: là lo lót, chạy chọt, đút nhét tiền của một cách kín đáo cho kẻ có quyền để cậy nhờ che chở hoặc ban ân huệ bất chính...
-         Nhũng lạm: ăn chận, ăn cắp của công.
II. TÂM HỒN TRONG SẠCH
            1. Tâm hồn sạch tội:
Tâm hồn sạch tội là một tâm hồn trong trắng không vướng mắc tội lỗi nào, hoặc giả có vướng mắc thì biết ăn năn sám hối quay về chính lộ sớm từng nào tốt chừng ấy như gương các thánh M. Madalena, Phêrô, Augustinô, Charles de Foucauld v.v...
            2. Đức thanh tịnh:
Đức thanh tịnh là gìn giữ sự trong sạch trong tư tưởng tâm tình, ngôn ngữ, cử chỉ, hành động... chứ không chỉ giữ sạch tội mà thôi.
    Quyết tâm:
-         Thà chết chẳng thà phạm tội, dù một lỗi nhẹ cố tình.
-         Nếu lỡ sa ngã phạm tội, không bao giờ bối rối lo sợ quá đáng, vì đó là mưu chước của Satan. Song hãy đặt tay trên ngực thú nhận tội lỗi và cầu nguyện cùng Chúa rồi an tâm tiếp tục việc bổn phận.
Lạy Chúa, đó là những gì con đã làm, nếu Chúa rút tay lại, con sẽ còn lỗi phạm hơn nữa..
Con mến Chúa. Con ăn năn hối hận vì con đã làm phiền lòng Chúa .
Con không dám tái phạm nữa...
Nguyện Chúa khấng ban cho con ơn phù trợ mà con trông cậy nhờ lòng lành của Chúa. Amen.
III. SẠCH SẼ THỂ CHẤT
Người có giáo dục phải biết sống sạch sẽ thể chất. Nói đến sạch sẽ thể chất là nói đến sạch sẽ thân xác và đồ dùng.
            1.  Sạch sẽ thân xác và đồ dùng:
a.      Thân xác:
-         Tắm rửa  thường xuyên .
-         Mỗi sáng vừa thức dậy chúng ta phải rửa mặt, đánh răng, chải đầu tóc cho gọn gàng, sạch sẽ.
-         Sau mỗi bữa ăn nên đánh răng, dù đã xỉa răng.
-         Năng cắt móng tay, móng chân, cho sạch sẽ gọn gàng.
-         Râu tóc phải cạo sạch cho vén khéo sạch sẽ, không nên theo những lối để tóc quá mới, hoặc thiếu đứng đắn.
-         Không khạc nhổ xuống đất.
-         Hắt hơi, nhảy mũi phải dùng khăn tay che miệng.
-         Hỉ mũi phải có khăn tay.
-         Ngáp, ợ, phải tế nhị dùng tay che miệng.
-         Tránh gãi đầu, ngoáy tai, cắn móng tay, cắt móng tay, bẻ tay nơi công cộng và trước mặt người khác.
b.      Trang phục:
Y phục phải vén khéo, đứng đắn, giản dị là điều căn bản.
-         Vén khéo là không cẩu thả, xốc xếch, lem luốc, lôi thôi khi ra trước công chúng. Cúc quần, áo nên cài cẩn thận.
-         Đứng đắn là dễ xem, mầu và kiểu hợp mắt nhiều người.
-         Giản dị là không lòe loẹt, cầu kỳ, quá mode.
            Nên nhớ: Quần áo là cá tính con ngưòi, quần áo có ảnh hưởng trực tiếp đến tâm hồn con người. Người khác đánh giá ta qua quần áo của ta.
c.      Nhà cửa:
-         Trước tiên là cần yên tĩnh, nên ý thức điều này khi lên xuống thang lầu, sử dụng máy hát, tivi, nhất là vào những gìơ khuya.
-         Không xả rác ra nhà, dù một cây tăm xỉa răng.
-         Thấy giấy rác, tàn thuốc,... phải nhặt bỏ vào sọt rác.

d.      Đồ dùng:
Sách vở, chén bát, tủ gường, bàn ghế...giữ cho sạch bụi bậm, không viết vẽ lôi thôi.
e.      Ăn uống:
-         Ăn uống phải khoan thai: và cơm thư thả, không vội vã một trật ba bốn miếng, húp canh phải húp cho êm. Miệng đang ngậm đồ ăn đừng há miệng cho người ta thấy thức ăn trong miệng .  
-         Gắp thức ăn đừng xáo trộn cả đĩa, đừng kén chọn, chỉ nên lấy miếng gần tay nhất.
-         Uống thì uống từng hớp, đừng vừa nhai vừa uống.
-         Người lịch sự chỉ xỉa răng lúc ngồi bàn ăn
            2.  Lợi ích của người giữ gìn sạch sẽ:
Người sạch sẽ thì thân xác mạnh khỏe, ít đau ốm bệnh tật; nhờ đó tinh thần được thanh thản thoải mái, minh mẫn, sáng suốt.


BÀI 5. HỌC TẬP CHỮ CHÍNH
chính trực - công bằng - tuân phục
I. CHÍNH TRỰC
            1. Ý nghĩa:
-         Chính trực là ban phát lời ngợi khen và lời khiển trách, quyền lợi và án phạt một cách nghiêm minh.
-         Chính trực là không tư vị và không để tình cảm lấn áp.
-         Chính trực là không hứa hẹn điều gì mà mình không làm được.
-         Chính trực là biết thành thật nhận lỗi lầm của mình và không tìm cách đổ lỗi cho người khác.
Tóm lại: Chính trực là nghiêm minh, không thiên vị, là tín trung và thành thật. Trong bài này, chúng ta sẽ khảo sát về chính trực xét như đức tính không thiên vị, đức tính rất cần thiết cho người lãnh đạo để hướng dẫn và quản trị nghiêm minh.
            2.  Tại sao người ta không thực hành chính trực được?
a.      Nguyên nhân nội tại: bị tình cảm chi phối: yêu, ghét, vui, buồn, tức giận, sợ hãi...
b.      Nguyên nhân ngoại giới: bị những áp lực bất chính bên ngoài chi phối quyết định của họ, bằng đe doạ, quyến rũ...
            3.  Bí quyết để thực hành đức tính chính trực:
-         Nghe theo lương tâm ngay thẳng.
-         Sống đức tin: nhìn con người, sự vật và các biến cố với cái nhìn của Đức kitô.
II. CÔNG BẰNG:
            1.  Định nghĩa:
Công bằng là trả lại cho mọi người những gì là của họ. Có ba loại công bằng:
-         Công bằng giao hoán đối với từng phần tử của xã hội, buộc mỗi người trả cho người khác những gì kẻ ấy có quyền đòi hỏi.
-         Công bằng pháp lý đối với các cộng đoàn xã hội, khiến mọi cá nhân hoạt động theo những đòi hỏi của ích chung,
-         Công bằng phân phối của xã hội đối với mỗi phần tử của cộng đoàn, thúc đẩy xã hội phân chia nhiệm vụ cũng như quyền lợi giữa các phần từ trong cộng đoàn một cách chính đáng.

            2.  Nghĩa vụ bại trừ tệ đoan tham ô, lãng phí:
a.      Thế nào là tham ô?
Tham ô là ăn cắp của công làm của tư, lợi dụng của chung làm của riêng cho địa phương, cho đoàn thể của mình, hoặc cho chính mình.
b.      Thế nào là lãng phí?
Lãng phí có nhiều cách, lãng phí thời gian, sức khỏe, tiền của,... Ở đây chỉ nói đến lãng phí của công. Lãng phí của công là:
-         Sử dụng nguyên vật liệu một cách phí phạm, quá mức cần thiết.
-         Không bảo quản đồ vật đúng quy định để hư hỏng, hao hụt.
-         Không tính toán sắp xếp sao cho có lợi nhất cho việc chung.
III ĐỨC TUÂN PHỤC
            1. Ý niệm:
Tuân phục là đức tính khiến ta bỏ ý riêng ta để theo ý muốn của cấp trên, vì ngài là đại diện của Thiên Chúa.
            2. Tại sao chúng ta phải vâng phục Thiên Chúa?
Có ba lý do khiến ta có bổn phận phải vâng phục thiên Chúa.
-         Là thụ tạo, con người phải tuân phục Thiên Chúa là Chủ tể tối cao của mình.
-         Là con cái, con người phải thảo hiếu vâng lời Thiên Chúa là Cha mình.
-         Là con dân Nước Trời, con người phải tuân phục Thiên Chúa là Đấng giải thoát mình.
            3. Những ai là đại diện của Thiên Chúa?
-         Về tôn giáo, đó là các vị trong hàng giáo phẩm.
-         Về chính trị, đó là những vị trong chính quyền.
-         Về gia đình, đó là ông bà, cha mẹ, anh chị...
            4. Thực hành đức tuân phục:                      
Có ba chiều kích tuân phục                                                                  
a.      Chiều cao (tính cách siêu nhiên):
Lý do buộc ta vâng phục không phải là do tư cách, tài năng của người trên, mà vì cấp trên là đại diện của Chúa, vì “chẳng có quyền nào không bởi Chúa và những chức vụ hiện hữu là do Thiên Chúa thiết định” (Rm 12,1). Đó là sự vâng phục của thánh Giuse khi về Bêlem theo lệnh kiểm tra dân số của hoàng đế Rôma.
b.      Chiều dài (tính cách phổ cập):
Đức vâng phục dậy ta phải vâng phục trong tất cả mọi đều bề trên truyền dạy, như Đức Kitô đã vâng lời cho đến chết và đã chết trên thập giá.
c.      Chiều rộng (tính cách tinh tuyền):
Thực thi cách nhanh chóng, vui tươi và đúng ý cấp trên, “xem một tâm hồn vui vẻ và nhanh nhẹn vâng phục chừng nào, con đoán được tâm hồn thánh thiện chừng ấy” (Đường hy vọng): Thánh Giuse đã nhanh nhẹn thực hiện mệnh lệnh thiên thần tryền: đang nửa đêm, ông chỗi dậy đưa con trẻ và mẹ Người trốn sang Ai cập.

BÀI 6. HỌC TẬP CHỮ TRÍ
trật tự - phương pháp - tổ chức
óc sáng suốt - trí phán đoán - sáng kiến
I. TRẬT TỰ
1.      Ý niệm tổng quát:
Trật tự là xếp đặt mỗi vật vào một chỗ riêng, mỗi việc vào một giờ nhất định.
Tóm lại: Trật tự là “việc nào giờ ấy, vật nào chỗ ấy”
     Có ba loại trật tự: vật dụng, giờ giấc, sinh hoạt.
2.      Trật tự trong vật dụng:
“Mỗi vật phải có một chỗ và vật nào chỗ ấy”
-         Các vật thường dùng, ta phải dành cho mỗi món một chỗ: Có tủ đựng thuốc men, có tủ để quần áo, có kệ cho sách, có thùng cất búa kềm...
-         Khi sử dụng xong một món nào, phải trả ngay về chỗ của nó.
-         Giấy tờ, tài liệu sắp xếp cho gọn gàng, ngăn nắp theo từng loại, để khi cần dùng đến là ta có sẵn ngay dưới tay, không phải mất giờ tìm kiếm.
3.      Trật tự trong giờ giấc
“Mỗi việc được qui vào một giờ, và giờ nào việc ấy”
a.      Có bảng thời dụng biểu hằng ngày, hằng tuần, hằng tháng.
b.      Thời dụng biểu phải:
-         Liên tục, không để cách quãng.
-         Hài hòa với chương trình chung.
-         Tỉ mỉ, chính xác cho từng hoạt động trong ngày...
-         Uyển chuyển dung hòa với những tình huống khó khăn.
4.      Trật tự trong sinh hoạt:
-         Sinh hoạt của ta có thể phân chia thành nhiều loại: tôn giáo, văn hóa, chính trị, lao động, giải trí v v...
-         Trật tự trong sinh hoạt là chi phối lượng thời gian, công sức, tiền bạc v v... cho mỗi loại sinh hoạt cách hợp lý.
-         Việc nào giờ đó và chỉ trong giờ đó mà thôi.
-         Đừng để qua ngày mai những gì mình có thể làm trong ngày hôm nay.
-         Cương quyết làm đến xong những gì mình đã xếp đặt trong chương trình, trừ khi có những trở ngại bất ngờ ngoài ý muốn. Phải diệt trừ tật xấu là hay thay đổi ý định.
-         Làm ngay việc khó trước hết “Thường ai cũng chỉ muốn làm việc dễ, gặp việc hơi khó thì bỏ đó hoài, thành thử công việc cứ xếp đống ở trên bàn, chẳng những hóa bê trễ mà còn sinh lo lắng, quạu quọ nữa, vì sáng nào tới hãng cũng trông thấy những giấy tờ nằm chình ình đó, nhắc nhở, không cho ta nghỉ ngơi, thư thái tâm hồn” (Nguyễn Hiến Lê).
-         Đừng làm việc gì cũng tự làm lấy: phải biết lựa người cộng sự và để họ tự do vận dụng sáng kiến trong tinh thần trách nhiệm.
II. LÀM VIỆC CÓ PHƯƠNG PHÁP
1.      Phương pháp là gì?
Là khuôn phép, lề lối, qui củ, giúp ta làm việc mau tiến bộ và đạt được thành qủa khả quan. Có nhiều thứ phương pháp, như:
-         Phương pháp phân tích (chia nhỏ vấn đề ra mà giải quyết).
-         Phương pháp tổng hợp (kết hợp nhiều phương pháp để giải quyết một vấn đề).
-         Phương pháp qui nạp (đưa ra nguyên tắc từ nhiều sự kiện).
-         Phương pháp suy diễn (đi từ lẽ chung ra lẽ riêng).
-         Phương pháp thực nghiệm (đạt tới kết quả bằng những thí nghiệm cụ thể) v.v...
2.      Sự cần thiết và lợi ích của phương pháp:
     Phương pháp là điều kiện tối cần giúp chúng ta thu hoạch được kết quả cao nhất với ít công sức và thời giờ phải bỏ ra cho công việc đó nhất, như triết gia Descartes quả quyết: “Nếu luôn theo đúng đường, thì những người đi rất chậm sẽ tiến xa hơn những kẻ chạy mà đi trệch đường”.
3.       Bốn qui tắc thuộc phương pháp suy luận của Descartes:
a.      Qui tắc hiển nhiên: chỉ được coi là hiển nhiên những gì ta quan niệm một cách rõ ràng và phân minh.
b.      Qui tắc phân tích: gặp một khó khăn, ta phải chia nó ra thành nhiều phần hết sức và tuỳ sự có thể để rồi giải quyết dần dần những phần dễ hơn, nhân đó sẽ nhìn ra cách giải quyết những phần còn lại.
c.      Qui tắc trật tự:  đi từ cái biết rõ tới cái chưa biết rõ, từ cái đơn sơ tới cái phức tạp.
d.      Qui tắc kiểm kê và nhìn tổng quát: soạn lại cái gì mình đã phân tích và nhìn tổng quát  để chắc chắn rằng mình không quên sót điều nào.
4.      Lợi hại của việc dùng phương pháp:
-         Người làm việc không phương pháp, thì phó mặc may rủi, may nhờ rủi chịu, nên thất bại là chắc chắn, còn kết quả là mong manh.
-         Trái lại người làm việc có phương pháp là người thấu triệt lợi ích và ý nghĩa của phương pháp, buộc mình phải theo phương pháp, và bất cứ làm việc nào họ cũng tìm ra phương pháp. Công việc của họ nhờ theo đúng khuôn phép mà thu hoạch được nhiều thành công tốt đẹp.
III. ÓC TỔ CHỨC
1.      Định nghĩa:
Theo nghĩa chữ, tổ chức là ghép lại, xỏ xâu lại; theo nghĩa bóng, tổ chức là xếp đặt cho có thể thức, trật tự , nề nếp.
Nói cách khác, tổ chức là xếp đặt công việc sao cho đỡ tốn nhân công, tài lực, thời gian mà vẫn thu được thành quả mong muốn.
Óc tổ chức cần cho mọi việc từ bé đến lớn, việc tư đến việc công, trong mọi lãnh vực của xã hội.
2.      Hai lối tổ chức:
a.      Tổ chức theo kinh nghiệm:
Là xếp đặt công việc dựa trên sự phỏng chừng và những thành bại trong công việc của quá khứ. Kết quả tuy đúng nhưng thiếu tinh mật và không thể áp dụng cho những công việc lớn lao hơn, hoặc những công việc tương tự như thế.
b.      Tổ chức theo khoa học:
Là xếp đặt công việc theo những phương pháp hợp lý để đạt tới cùng một kết quả mà mất ít nhất về thời gian, nhân lực và tài lực.
3.      Phương pháp tổ chức:
Tổ chức công việc theo khoa học gồm có sáu khâu:
a.      Chuẩn bị:
Là xem ta định làm công việc gì, cần những điều kiện nào đê hoàn tất công việc đó. Óc thực tế là rất quan trọng trong khâu chuẩn bị này để ta khỏi chuốc lấy thất bại do thiếu những điều thiết yếu cho công việc, và cũng không quá tốn kém bởi những món không cần thiết.
b.      Phân công:
Đừng ôm đồm làm lấy tất cả mọi việc, vì sức người có hạn. Loại chỉ huy ôm đồm như vậy nhất định sẽ thất bại, vì không ai làm tốt được tất cả, cũng như không thể làm tất cả mà tốt được.
Phải biết phân chia công việc cho đồng sự, phân công là cả một nghệ thuật mà người chỉ huy cần phải tìm hiểu và học hỏi luôn để trao công việc cho mỗi người hợp với khả năng và sở thích của họ.
c.      Kiểm soát:
-         Là xem cho biết chương trình có được thực hiện đúng như đã hoạch định không?
-         Là phát hiện những yếu tố tích cực để kịp thời khích lệ hoặc tận dụng trong mỗi công việc.
-         Là nhận ra những khuyết điểm trong quá trình thực hiện để kịp thời sửa sai hoặc chấn chỉnh lại.
-         Là biết đến những tình huống khác nhau thường xẩy đến khi công việc được tiến hành để ứng phó hợp thời và hợp lý.
  * Phải kiểm soát thế nào cho hiệu quả? Phải có kiểm soát thường xuyên và kiểm soát bất ngờ.
  * Phải kiểm soát về những gì? Tuỳ công việc, nhưng thường thì phải kiểm soát về nhân viên, công tác, thời giờ và dụng cụ v.v...
d.      Phối trí:
Là khâu quan trọng nhất trong việc tổ chức: phối hợp các yếu tố hoạt động với nhau, để tạo nên sự đồng bộ trong công việc, để mỗi các yếu tố làm việc có được sự cộng hưởng thuận với nhau dồn về một thành công chung.
Muốn cho được việc, phải có kế hoạch biểu ghi rõ ai làm việc gì, bao nhiêu người làm, làm bao lâu, cần những phương tiện gì cho mỗi công đoạn v.v..
e.      Hệ thống hóa:
Là xếp đặt các chức vụ và nhân viên trong khuôn khổ kỷ luật nhằm phục vụ cách đắc lực các nhân viên và đoàn thể.
Nhờ hệ thống hóa, các khả năng được đặt trong vòng trật tự, được chi phối cách hợp lý và nghiêm minh. Hơn nữa, việc giám thị trực tiếp của thượng cấp bớt nặng nề, vì trong guồng máy mỗi người đều biết rõ trách vụ của mình phải chu toàn. Trong trường hợp người thủ lãnh vắng mặt đột xuất, guồng máy hoạt động chung vẫn có thể làm việc bình thường.
Không được hệ thống hóa, các khả năng hoạt động không những sẽ rời rạc, không ăn khớp, mà lắm khi còn đụng chạm hoặc dẫm chân lên nhau làm giảm năng suất cá nhân và ích lợi của cả tập thể.
f.        Chỉ huy:
Bất cứ một tổ chức nào cũng cần phải có người cầm đầu. Người chỉ huy là người hướng dẫn và thúc đẩy công việc đạt tới thành đạt.
     Muốn được như thế, người chỉ huy cần phải là:
-         Người trí: thông minh, nhìn xa trông rộng.
-         Người chí: cương dũng đi đến mục đích.
-         Người đắc nhân tâm: Tạo được sự mến phục nơi thuộc viên.
IV. ÓC SÁNG SUỐT
1.      Thế nào là sáng suốt?
     Sáng suốt là nhận xét hoàn toàn khách quan đâu là thực, đâu là giả, đâu là phải, đâu là trái, việc nào nên làm, việc nào phải tránh.
2.      Làm thế nào để có óc sáng suốt?
Muốn lập cho mình có óc sáng suốt, ta phải tập tính biết tiên liệu và óc thực tế.
3.      Tiên liệu là gì?
-         Là nhìn thấy trước công việc ta đang làm cần phải có những gì để chuẩn bị sẵn sàng, có thể gặp những trở ngại nào để đối phó, chứ không phải đợi nước đến chân rồi mới nhảy thì nhiều khi không kịp.
-         Là không quá ỷ lại vào khả năng thích ứng của mình, vào một sự thuận lợi nào đó mà ơ hờ không định liệu trước.
4.      Làm sao để tập tính tiên liệu?
    Ta phải quyết tâm:
-         Biết rõ công việc mình sắp làm, rồi mới bắt tay vào việc.
-         Phải nhìn trước khi nhảy, phải điều tra trước khi đầu tư.
     “ Người không lo xa ắt có buồn gần”
5.      Người thực tế là người thế nào?
Đó là người
-         Biết người biết mình với hết mọi khả năng và giới hạn; và can đảm nhận thực chân tướng của mình cùng với những ưu điểm cũng như khuyết điểm.
-         Biết nhìn tổng quát toàn thể, với tất cả thuận lợi cũng như bất lợi, và không để mình bị thôi miên vì một tiểu tiết nào đó mà quên mất cái toàn thể.
6.      Óc thực tế cần thiết như thế nào?
     Óc thực tế giúp ta biết chính xác về công việc phải làm, những thuận lợi phải tận dụng, cũng như khó khăn phải xử lý để có được những cách xử thế hợp tình hợp cảnh, và đạt được mục tiêu cách mau chóng và chắc chắn hơn; chứ không giải quyết công việc theo những tưởng tượng hão huyền và những lý luận viễn vông xa vời.
7.      Cách tập luyện óc thực tế:
-         Trước hết phải tập luyện để thấm nhập trong mình điều căn bản cuả óc thực tế là “thấy rõ, thấy đúng, thấy xa” trong khi nhận định vấn đề.
-         Trong mọi việc, phải chú trọng đến phần thực hành, vì hiểu biết lý thuyết mà chưa thực hành là học chưa đến nơi đến chốn vậy.
-         Phải biết “dùng cái không tránh được mà tạo ra cái hữu dụng” (Talleyrand)
-         Óc thực tế chân chính bao giờ cũng phải được chuẩn bị bởi suy gẫm chín mùi, bởi nghiên cứu tỉ mỉ.
V. TRÍ PHÁN ĐOÁN
1.      Ý niệm
Phán đoán là lượng giá để biết hoặc tốt hoặc xấu, hoặc hơn hoặc kém, hoặc phải hoặc trái, về một người hay một biến cố, sự việc.
2.      Vai trò quan trọng của phán đoán:
Phán đoán đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống hằng ngày, giúp ta khám phá được chân lý, nhận biết đâu là thực giả.
3.      Bí quyết luyện óc phán đoán:
     Một óc phán đoán tốt cần phải có bốn yếu tố sau:
a.      Tinh thần khách quan:
Phải “phán đoán bằng óc chứ không phải bằng tim” nghĩa là phải vận dụng lý trí phán đoán, và giảm thiểu tối đa ảnh hưởng cuả tình cảm (vui, buồn, yêu, ghét...) trên sự phán đoán cuả ta.
b.      Biết nghi ngờ chính mình:
Phải tập tin rằng mình có thể sai lầm để tránh được thói chủ quan, một thói xấu rất có hại cho óc phán đoán. Cổ nhân đã nói “càng học càng thấy mình ngu”, còn Nguyễn Hiến Lê thì nói: “Tôi có thể nói: Người nào không ngờ mình sai, lại khoe rằng mình học rộng là người đó ít học. Người nào được người khác chỉ cho thấy mình sai mà không chịu nhận thì càng ít học hơn nữa”.
c.      Không thành kiến:
Thành kiến là một thứ tin thường ngây thơ, tin mà không có chứng cớ đích thực. Dầu vậy, đó là một khuyết tật mà cả những bậc tài trí cũng vẫn có thể mắc phải.
d.      Không quyết đoán khi chưa đủ chứng cứ, tài liệu.
VI. ÓC SÁNG KIẾN
1.      Ý niệm:
    Sáng kiến là ý tưởng mới lạ do mình nghĩ ra, không bắt chước ai hết. Hiểu theo nghĩa rộng, sáng kiến là sự tìm tòi ra những cái mới trong mỗi công việc, mỗi công thức làm việc, trong cách sử dụng một dụng cụ,... sao cho hay hơn, tiện lợi hơn.  
2.      Cơ sở của óc sáng kiến:
    Óc sáng kiến hoạt động dựa trên trí thông minh, óc quan sát, kinh nghiệm và sự cố công nghiên cứu.
3.      Những nguyên nhân làm bế tắc óc sáng kiến.
a.      Lối học “gạo”, chỉ lo rèn luyện trí nhớ mà ít lo sáng tạo, ít lo mở mang óc quan sát, trí tưởng tượng, óc phê bình và trí phán đoán.
b.      Giáo dục theo kiểu  “gia trưởng” nhất nhất mỗi cái đều phải làm theo đúng ý cấp trên trong từng chi tiết nhỏ nhặt nhất. Làm cho người trẻ phải mỗi làm mỗi hỏi, không dám tự mình làm một việc gì dù là nhỏ nhặt.
4.      Cách phát huy sáng kiến:
     Muốn phát huy sáng kiến, ta phải:
                    -  Tự tin, đừng mỗi việc mỗi hỏi, nhưng phải tự giải quyết bằng cách đọc sách báo, học hỏi kinh nghiệm.
            -  Lưu tâm đến công việc của mình.
            - Thu thập những kiến thức khoa học làm nền tảng cho những sáng kiến của mình.
            -  Học tập quan sát, trau dồi kỹ thuật.
            -  Rút từ kinh nghiệm của người khác những cái hay, cái mới.
            -  Theo dõi những tiến bộ mới để cải thiện sinh hoạt.             

BÀI 7. HỌC TẬP CHỮ TÍN
chân thành - trung tín - tự tin
tinh thần trách nhiệm
I. CHÂN THÀNH
1.      Ý niệm:
Chân thành có nghĩa là luôn thành thật với mọi người và cả với chính mình, trong cách cư xử, điệu bộ, và lời nói.
2.      Thế nào là không chân thật:
a.      Người ta có thể không chân thật trong ngôn ngữ, cử chỉ, hành động,... như:
-         trong ngôn ngữ: nói dối, nói láo, thề gian...
-         trong cử chỉ: cách ngó xem, đi đứng, giả hình, giả bộ, “đóng kịch”...
-         trong hành động: làm chứng gian,viết sách báo phổ biến sự dối trá, chơi “ăn gian”, cóp bài, gian lận trong công tác, trong kế toán tài chánh, văn hóa, thương mại...

b.      Nguyên nhân của dối trá:
    Theo Duprat và Vérel, không kể một số nhỏ dối trá vì ác ý, còn phần lớn là do hai nguyên nhân chính: sợ sệt và khoe khoang.
3.      Lý do buộc ta phải giữ đức chân thành:
a.      Về  phương diện tự nhiên: Ta có tập được đức tính chân thành thì mới được tín nhiệm trong xã hội và được mọi người quí mến. Ai cũng sợ hạng người “bề ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao”.
b.      Về phương diện siêu nhiên, chúng ta phải ăn ở chân thành,
-         Vì Thiên Chúa, Cha chúng ta, Đấng là chân lý, đã dậy chúng ta “có thì nói có, không thì nói không, mọi sự thêm bớt đều do ma quỉ mà ra”,
-         Vì ai chân thành sẽ được sống trong tự do: “sự thật sẽ cho các ngươi được tự do” (Ga 8, 32).
-         Vì chúng ta có thể lừa dối người ta, nhưng không thể lừa dối Thiên Chúa, Đấng phán xét ta trong ngày sau cùng.
4.      Ảnh hưởng tốt của chân thành và hậu quả xấu của dối trá
a.      Người sống chân thành luôn được mọi người chung quanh tín nhiệm, khâm phục và quí mến, kể cả những kẻ gian dối cũng kính trọng những người chân thành.
b.      Người chủ trương sống gian dối, xảo trá, thì mọi người coi khinh, không tin tưởng và tìm cách lánh xa, kể cả những người gian dối cũng không ưa sống với người gian dối. Abraham Lincoln có một câu nói bất hủ về người gian dối: “Bạn có thể lường gạt mọi người trong một thời gian và lường gạt vài người luôn mãi, song không thể lường gạt luôn mãi hết mọi người”.

II. TRUNG TÍN
1.      Ý niệm:
Trung tín là ăn ở ngay thẳng, trước sau như một, không thay lòng đổi dạ trước những thay đổi của cuộc đời.
Là Kitô hữu, chúng ta phải trung tín trước hết là đối với Thiên Chúa, với Giáo hội, rồi với tổ quốc và tha nhân.
2.      Thế nào là trung tín với Thiên Chúa?
     Ngày chịu phép Rửa tội, chúng ta đã thề nguyền với Chúa là sẽ khước từ Satan cùng mọi sự giầu sang của nó để quyết tâm theo Ngài đến trọn đời. Vậy, trung tín với Thiên Chúa là:
-         Cương quyết trung thành với lời đã tuyên hứa, không bao giờ dám cố tình phạm một tội nào, dù là tội nhẹ.
-         “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, cùng yêu tha nhân như chính mình” (Mt 22, 37- 40).
3.      Trung thành với Giáo hội:
-         Gắn người bó với Chúa Kitô và hiệp nhất với Hội thánh toàn cầu.
-         Gắn bó với Đức Giáo hoàng, vị Đại diện của Đức Kitô, người được Chúa trao cho trách nhiệm chăn dắt đoàn chiên của Người.
-         Gắn bó với mọi chi thể của Hội thánh theo kiểu mẫu Giáo hội sơ khai: “Chỉ có một tấm lòng, một linh hồn, không một người nào nói là mình có của gì riêng, nhưng đối với họ mọi sự điều là của chung” (Cv 4,32; 2,42).
-         Sống tinh thần của Công đồng Vat.II: cởi mở, đối thoại, hòa mình với cộng đồng xã hội mình đang sống.
4.      Trung thành với tổ quốc:
-         Tích cực góp phần cùng đồng bào cả nước bảo vệ và xây dựng tổ quốc.
-         Xây dựng một nếp sống và một lối diễn tả đức tin phù hợp với truyền thống dân tộc.
5.      Trung tín với tha nhân:
a.      Trước khi muốn làm một việc gì, phải suy nghĩ cẩn thận xem có khả năng thi hành không.
b.      Đã hứa thì phải giữ, dầu thiệt cho ta đến mấy cũng phải giữ.
“Uy tín của thủ lãnh là đồ bỏ đi, nếu thủ lãnh hoang phí lời hứa và hay nuốt lời. Một thủ lãnh già giặn rất tiết kiệm lời hứa, và khi đã hứa thì dù thế nào cũng giữ đúng” (Hoàng Xuân Việt)
III. TỰ TÍN
1.      Ý niệm:
Tự tín là tin ở tài lực của mình trong khi thực hiện một công việc nào đó. Tự tín làm cho ta được kính phục và thành công, khác biệt với tự phụ, tự đắc hay tự mãn là những tính xấu chỉ làm cho ta bị ghét bỏ và gặp thất bại do chủ quan và thất nhân tâm.
Còn người tự tin, một khi nhận nhiệm vụ, họ đặt hết tin tưởng một bên vào khả năng thực hiện của mình, một bên vào nhiệm vụ đã được uỷ thác. Và khi đã bắt tay vào việc là họ nỗ lực tiến cho tới đích, triệt để vận dụng tài cán, năng lực để vượt qua những gian nan chồng chất, những thử thách bủa vây, không tỏ ra chán nản, mất tinh thần, cho tới khi công việc thành công.
2.      Phương pháp rèn luyện:
a.      Về mặt nhân bản:
-         Dùng tự kỷ ám thị mà tiêu diệt tính tự ti mặc cảm, như thánh Augustinô đã nói: “Ông nọ bà kia nên thánh được tại sao tôi không?”.
-         Luyện tập tự tín trong các việc nhỏ hằng ngày: tập suy nghĩ, lượng địng công việc cũng như khả năng của mình và tìm kiếm những phương tiện thích hợp, rồi mạnh dạn bắt tay vào thực hiện cho tới khi hoàn thành, không bỏ dở nửa chừng. Nhờ thành công đôi lần, ta sẽ thêm lạc quan và lòng tự tin cũng sẽ lớn mạnh lên.
-         Lòng tự tin dễ gây cảm phục, cảm phục lôi kéo sự bắt chước. Ta nên thường giao tiếp với những người có lòng tự tin để tập nhiễm thói quen tự tin của họ vào mình.
b.      Về mặt siêu nhiên:
      Tin rằng Thiên Chúa sẽ ban đầy ơn cho ta khi thi hành những công việc bổn phận của mình, và không để ai chịu thử thách quá sức, ta sẽ thêm tự tín khi thực hiện công việc.
IV. TINH THẦN TRÁCH NHIỆM
1.      Ý nghĩa:
Người có tinh thần trách nhiệm là người khi đã đảm nhận một công việc nào, liền coi như mình đã cam kết sẽ hoàn thành một cách chu đáo, và sẵn sàng chịu nhận mọi hậu quả của công việc mình làm trước lương tâm mình.
2.      Thế nào là người không có tinh thần trách nhiệm?
Có bốn loại người không có tinh thần trách nhiệm:
a.      Người sợ trách nhiệm: là người nhút nhát, chưa bắt tay vào đã sợ hỏng. Không dám làm, mà chỉ dám xúi người khác làm.
b.      Người tắc trách: là người không chú tâm thi hành nhiệm vụ, mà chỉ quấy quá cho xong, chứ không cố làm cho đến nơi đến chốn.
c.      Người đào nhiệm: là người bỏ nhiệm vụ đã nhận vì một lý do không chính đáng, vì tình cảm, lợi lộc hoặc chính kiến v.v...
d.      Người phản trắc: là người vì kém tài mà không biết khắc phục khó khăn, vì sai lầm mà gây thiệt hại hay thất bại... rồi không dám nhận lỗi mà đổ cho người khác, nhất là người dưới.
3.      Gía trị của tinh thần trách nhiệm:
a.      Ích lợi của tinh thần trách nhiệm: Bất cứ một tổ chức nào, đoàn thể nào, nếu mọi phần tử đều có tinh thần trách nhiệm, biết lo hoàn tất phận sự của mình một cách hoàn hảo, thì tổ chức đó sẽ được tiến hành trong vòng trật tự, và dĩ nhiên sẽ thu hoạch được kết quả mỹ mãn.
b.      Tai hại của tính vô trách nhiệm: Nếu cấp trên cố gắng thi hành nhiệm vụ còn cấp dưới lại tắc trách hay đào nhiệm; hoặc tệ hơn, nếu cả cấp trên lẫn cấp dưới đều vô trách nhiệm, thì nhất định tổ chức không phát triển được và không sớm thì muộn sẽ đổ vỡ.

BÀI 8. HỌC TẬP CHỮ DŨNG
tự chủ - cương nghị - nhẫn nại
I. ĐỨC TỰ CHỦ
1.      Ý nghĩa:
Theo nghĩa chữ, tự chủ là mình tự làm chủ lấy mình, không phải lệ thuộc ai, không bị ai điều khiển... nhưng thường thì chữ tự chủ được hiểu như là một đức tính giúp con người có đủ nghị lực để chi phối, khắc phục và điều khiển dục vọng của mình. Đó là người:
-         Đối với dục vọng: chế ngự và trấn át được dục vọng và những bản năng thấp hèn của mình.
-         Đối với miệng lưỡi: trầm tĩnh, nghe nhiều nói ít, không nói những lời vô ích, không quá lời.
-         Đối với bộ thần kinh: có thể giữ được tỉnh táo khi đứng trước cảnh nguy nan, nhờ đó làm cho cấp dưới an tâm vững dạ. Không bao giờ để lộ ra vẻ mặt lo sợ, buồn bã, luống cuống,... vì chỉ làm cho công việc ra tệ hại hơn.
-         Đối với quả tim: nhân từ, khoan dung, hiểu biết và không bao giờ để cho sở thích hoặc đố kỵ khiển mình. Không hành động theo cảm tình, mà chỉ theo lý trí sáng suốt.
2.      Ích lợi của đức tính tự chủ:
a.      Người tự chủ là người luôn luôn điều khiển được sinh hoạt của mình. Họ cũng có những tình cảm, dục vọng và mọi thị hiếu như những người khác, nhưng không nô lệ cho chúng; họ cũng hăng say hoạt động với mọi thứ thị hiếu và khuynh hướng riêng, nhưng bao giờ cũng hành động có ý thức và đầy đủ cương quyết.
Vì hành động theo lý trí, nên họ là người có lý tưởng và làm việc theo chương trình hẳn hoi, và luôn giữ một nếp sống họ đề ra cho mình, bất kể sự thay đổi của hoàn cảnh xung quanh.
b.      Còn người không biết tự chủ, thì tâm trí họ như mảnh vườn hoang mặc cho dục vọng, tính mê tật xấu đua nhau tung hoành, rồi giận quá mất khôn, lo quá rối trí, mừng quá sinh ảo tưởng v.v... không thể kể hết thiệt hại.
3.      Tự chủ theo quan niệm thần học:
    Theo quan niệm thần học, tự chủ là tái lập sự quân bình tiên khởi nơi bản tinh loài người đã bị đánh mất bởi tội nguyên tổ.
   Thuở ban đầu, trước khi phạm nguyên tội, thì các hoạt động hạ đẳng nơi bản tính con người như cảm tình, bản năng, khuynh hướng, giác quan v.v... đều tùng phục các tài năng thượng đảng là trí tuệ và ý chí của ta, và lý trí lệ thuộc Thiên Chúa.
           Ta có sơ đồ:
                    THIÊN CHÚA
                             LÝ TRÍ
                                 GIÁC QUAN
    Ý nghĩa: Trước khi phạm tội, các giác quan lệ thuộc lý trí, còn lý trí lại lệ thuộc Thiên Chúa. Vì thế, con người làm chủ hoàn toàn mọi hoạt động của mình và qui hướng mọi hoạt động đó theo ý Thiên Chúa, khi lý trí con người không muốn tùng phục Thiên Chúa, trật tự trên đã bị đảo lộn, lý trí không còn làm chủ được mọi hoạt động của con người nữa: suy tư, phán đoán, yêu thương, giận ghét, ăn uống, học hành, ngủ nghỉ v.v...
    Do đó, tự chủ chính là tái lập lại thế quân bình của con người lúc ban đầu: rèn luyện cho giác quan tùng phục lý trí, và lý trí tùng phục Thiên Chúa.
4.      Phương thế luyện tập đức tính tự chủ:
-         Tập trầm tĩnh, suy nghĩ nhiều hơn và nói ít hơn.
-         Năng đọc hạnh các thánh, gương danh nhân, các sách học làm người v.v...
-         Tập cho mình có thói quen chịu đựng những sự khó chịu nhỏ nhặt mà không kêu ca, như trời kêu nóng, lạnh, cơm khê, nhức đầu v.v..
-         Nên thường xuyên cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích để có được sức mạnh nội tâm và ân sủng Chúa.
II. CƯƠNG NGHỊ
1.      Ý nghĩa:
    Cương nghị là khi đã quyết định thi hành một công tác nào, thì nhất tâm làm, không do dự, không trì nghi. Nói cách khác là nỗ lực làm cho đến nơi đến chốn.
    Theo B. Franklin, cương nghị là “việc gì thấy cần thì phải làm cho kỳ được”.
    Người thiếu cương nghị cũng quyết định. Nhưng đến lúc thực hiện thì rụt rè, phân vân, nửa muốn làm, nửa muốn thôi, cuối cùng là bỏ dở dang.
2.      Tai hại cho người thiếu cương nghị:
“Thành ư quả quyết, bại ư do dự”: người không cương nghị nay muốn làm việc này, mai lại muốn làm việc khác. Họ luôn luôn thay đổi: thay đổi công việc, thay đổi chương trình, thay đổi giờ giấc... Do đó, lúc nào họ cũng ở vị trí bắt đầu mà không có gì hoàn thành.
3.      Luyện tập đức cương nghị:
-         Rèn luyện ý chí: khi đã suy xét kỹ càng và quyết định làm một điều gì, thì ta phải nhất định làm cho đến nơi đến chốn, trừ khi bị ngăn trở vì những lý do bất khả kháng.
-         Tập quả quyết từ việc nhỏ, đừng bao giờ khinh thường cho việc nhỏ là không quan trọng.
III. ĐỨC NHẪN NẠI
1.      Ý nghĩa:
Nhẫn là nhịn, chịu đựng, dằn lòng xuống; nại là chịu, quen chịu.
Nhẫn nại là tính nhịn chịu những nổi vất vả, khó khăn gian khổ mà không sờn lòng, không chán nản, miễn sao đạt được mục đích mới thôi.
2.      Lợi ích của tính nhẫn nại:
Người nhẫn nại là người duy trì ý chí vững vàng, không để một trở lực nào có thể thay đổi quyết định của mình. Đức nhẫn nại đã tạo ra những bậc anh hùng, kỳ tài trong nhân loại.
Ngược lại, người không kiên nhẫn khởi đầu rất hăng hái, nhưng khi gặp trở ngại, khó khăn, hay gặp công việc vui thích hơn thì bỏ cuộc ngay lập tức. Họ giống như chiếc thuyền trôi dạt trên dòng sông mà không đi đến đâu cả.
3.      Luyện tập đức kiên nhẫn:
a.      Xét về phương diện nhân bản:
-         Đời là bể khổ, không thể tránh được thì than thân trách phận hay ngã lòng rủn chí nào có ích chi. Chỉ còn cách là cam chịu cách nào cho hữu ích nhất mà thôi.
-         Thời gian là yếu tố cần thiết cho mọi sự thành công. “Kiến tha lâu cũng đầy tổ; nước chảy đá mòn”.
-         Không có nhân đức nào là vững vàng khi chưa qua thử luyện.
b.      Xét về mặt siêu nhiên:
Đối với người tín hữu, có hai phương thế hiệu nghiệm để luyện tập đức kiên nhẫn là suy niệm và cầu nguyện:
-         Suy niệm: sự khó mau qua, thiên đàng còn mãi. Chúa không đòi thành công mà chỉ đòi cố gắng.
-         Cầu nguyện: để có thể bền đỗ đến cùng nhờ ơn Chúa.


BÀI 9. HỌC TẬP CHỮ NHÂN
đức yêu người - tư cách lịch sự
lịch sự trong giao tế xã hội

A. ĐỨC YÊU NGƯỜI
Tha nhân là ai, ta phải yêu tha nhân như thế nào, Thiên Chúa đã làm gương về tình yêu thương tha nhân như thế nào, là những chủ đề của bài này.
1.      Tha nhân là ai?
a.      Một số cái nhìn phản diện:
Một số người có quan niệm tiêu cực về tha nhân theo cách nhìn của Plaute, một triết gia cổ La mã, nói rằng người đối với người là chó sói; hay theo tư tưởng của J.P. Sartre, một triết gia Pháp, nói rằng tha nhân chính là hỏa ngục.
Thực tế có nhiều lúc ta thấy mình phải khổ là bởi tha nhân, bởi người chung quanh ta. Họ như chó sói lúc nào cũng rình rập cắn xé ta, họ là địa ngục làm khổ ta. Nhưng nghĩ lại, ta thấy nói như vậy là quá đáng, là phản lại quy luật về tình nhân ái tự nhiên, cũng như tình nhân ái do Thiên Chúa mặc khải.
b.      Tình nhân ái tự nhiên:
Lương tri tự nhiên của con người ở mọi nơi đều đề cao và cổ võ cho tình yêu thương giữa nhân loại với nhau như là anh em trong một gia đình. Nhiều triết gia, vĩ nhân cũng nghĩ như thế. Đức Khổng tử dậy các môn đệ: “Tứ hải chi nội, giai huynh đệ giã”, nghĩa là người trong bốn bể đều là anh em.
c.      Tình nhân ái xét về phương diện siêu nhiên:
Từ Cựu ước đến Tân ước, Thiên Chúa luôn luôn dậy dỗ Dân Người cũng như tất cả nhân loại phải yêu thương nhau, về mặt tiêu cực là đừng làm thiệt hại cho ai về bất cứ điều gì, như tiền của, danh tiếng, sức khỏe, mạng sống; đồng thời, về mặt tích cực là phải tha thứ, chia sẻ, phục vụ, trợ giúp người khác như chính mình. Chúa Giêsu đã dạy một nguyên tắc được gọi là LUẬT VÀNG (Golden Rule): “Hãy làm cho kẻ khác những gì ngươi muốn người khác làm cho chính mình” (Mt 7,12).
2.      Thiên Chúa đã làm gương về tình yêu thương tha nhân
a.      Thiên Chúa đã yêu ta một tình yêu muôn đời:
      Thiên Chúa là tình yêu, nên từ muôn thuở, thì Người đã yêu tôi. Ngay khi chưa có tôi, từ khi chưa có vũ trụ này thì người đã yêu tôi và yêu tôi tha thiết, bởi lẽ nếu không yêu tôi thì Người đã không dựng nên tôi, và dựng nên cả vũ trụ này là để cho tôi.
b.      Thiên Chúa đã đi bước trước:
Đó chính là bản chất của lòng mến: “Không phải vì ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng là Người đã yêu mến ta” (Ga 4,10).
c.      Thiên Chúa đã giáng thế làm người:
“Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế.” (Pl 2,6- 7).
d.      Thiên Chúa đã thí mạng vì ta:
Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta vô cùng khi đã thí mạng vì chúng ta, trong khi chúng ta phản nghịch cùng Người. Quả là “không có lòng mến nào lớn hơn là thí mạng sống mình vì bạn hữu”. (Ga 15,13).
e.      Thiên Chúa đã nuôi chúng ta bằng thịt máu Người:
“Thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống” (Ga 6,55)

3.      Nghĩa vụ của ta đối với tha nhân:
a.      Yêu tha nhân cả hồn và xác:
Có những nhà làm việc từ thiện xã hội duy vật chủ nghĩa chỉ quan tâm giúp đỡ con người về phương diện vật chất mà thôi, và không chú tâm đến đời sống tâm linh của họ; lại cũng có những người thuộc hạng duy linh quá đà, chỉ nghĩ đến lợi ích của linh hồn mà coi thường những nhu cầu của thân xác.
Bản tính con người có hồn có xác, nên tình yêu đối với tha nhân cũng phải hướng về cả xác lẫn hồn, tuy nhiên linh hồn bao giờ cũng phải có địa vị ưu tiên.
b.      Yêu tha nhân với mối tình phổ quát:
Tình yêu của ta phải dành cho tất cả mọi người, không trừ một ai, kể cả những người thù ghét ta hoặc làm thiệt hại cho ta một cách nào đi nữa. Vì bản tính của tình yêu đòi hỏi như thế. “Nếu các ngươi yêu mến những kẻ yêu mến các ngươi thì có công gì?” (Mt 5,46)
c.      Tình yêu khiêm hòa;
Tình yêu thực sự đòi hỏi khiêm nhường và hiền lành. Khiêm nhường để có thể coi trọng và phục vụ quyền lợi anh em, hiền lành để chịu đựng, nhẫn nhục các tính xấu của anh em. “Hãy học cùng Ta, vì Ta hièn lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 12,29)
d.      Tình yêu tha thứ:
Đức ái chân thực thì phải tha thứ, và tha thứ không giới hạn, như Đức Giêsu đã nói với Phêrô. “Ta không nói đến bảy lần, mà đến bảy mươi lần bảy”( Mt 18,22).
e.      Yêu thương tha nhân tức là từ bỏ chính mình:
“Tình yêu huynh đệ không thể phát sinh và lớn lên nếu anh không từ bỏ chính mình, nếu tính ích kỷ của anh không biết chột dạ, nếu anh không dứt bỏ cái thế giới của anh, quan niệm của anh, tập quán của anh”. (René Voillaume, Anh em của mọi người)
f.        Yêu thương tức là dấn thân:
Kitô giáo là đạo cứu thế qua việc dấn thân phục vụ theo gương Đức Kitô, con Thiên Chúa, đã dấn thân đến làm người sống giữa chúng ta với trọn vẹn thân phận của một con người như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi, để cứu độ chúng ta.
Dấn thân là đi vào thế giới với thái độ cởi mở, thiện chí, khiêm tốn, hiền lành, sẵn sàng cộng tác với mọi người để mưu cầu hạnh phúc cho mọi người.
Dấn thân là đoán trước những nhu cầu của tha nhân để giúp đỡ trước khi họ mở miệng xin ta trợ giúp.
g.      Yêu thương là phục vụ: “Con người không đến để được phục vụ, nhưng là để phục vụ” (Mt 21,28).
Phục vụ là cho đi: càng cho nhiều, càng phục vụ nhiều, càng yêu thương nhiều:
-         Cho tiền là của cho ít nhất.
-         Cho sự sống, sức khỏe, thời giờ là bậc thứ hai.
-         Bậc cao nhất là cho sự kính trọng xứng với phẩm giá con người, là sống bình đẳng với người nghèo.
Cho tất cà biểu lộ một tình yêu vô bờ bến.
h.      Yêu thương là hy sinh:
“Căn cứ vào điều này mà chúng ta biết được tình Chúa yêu thương: đó là Đức Kitô đã thí mạng sống vì ta, như vậy cả ta nữa, ta cũng thí mạng vì anh em”(1Ga 3,16)
Bởi đó, tiêu chuẩn giúp ta biết được một cách chắc chắn là mình đã yêu tha nhân như thế nào dựa trên việc ta đã thí mạng sống mình  cho anh em ra sao. Yêu thương là hy sinh, hy sinh là yêu thương.
     Cha Huvelin, linh hướng của anh Charles de Foucauld đã bàn rất hay về Đức Ái như sau: “nếu tôi nói: tôi đã yêu, thực không có gì buồn bã cho bằng, vì đó là một sự lãng quên, một chết chóc, vì tôi không còn yêu nữa; nếu tôi nói; tôi sẽ yêu, thì đó là một từ rỗng tuếch vì tôi chưa hiến thân chút nào. Vậy động từ YÊU chỉ có một”thì” duy nhất là thì hiện tại: tôi yêu, tôi đang yêu”.

B. TƯ CÁCH LỊCH SỰ
I. NGUYÊN TẮC TỔNG QUÁT
1.      Phép lịch sự là gì?
Lịch sự là những nghi thức, ước lệ cho mọi người cùng chung sống trong xã hội lập ra và cùng thừa nhận để diễn tả sự tôn kính, yêu thương, và làm cho cuộc sống chung được êm đẹp.
Phép lịch sự đặt nền tảng trên hai đức tính: công bình và bác ái.
-         Công bình dậy ta quí  trọng sự tự do nhân vị của người khác.
-         Bác ái dậy ta biết tự chế, hy sinh ý riêng, để tạo bầu khí vui tươi thoái mái giữa anh em vơí nhau và biết chủ ý làm cho người khác được vui lòng.
Lịch sự là tốt đẹp như thế nên ai cũng muốn được đối đãi một cách lịch sự và nhất thiết là phải muốn sống lịch sự. Ta sẽ lần lượt phân tích một tính cách lịch sự theo các khía cạnh của nó:
2.      Lịch sự đối với Thiên Chúa:
Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và là chủ thể của chúng ta, nên Người phải được kính yêu tôn trọng một cách đặc biệt. Phép lịch sự dậy ta phải:
-         Kính trọng và yêu mến Thiên Chúa một cách đặc biệt trong mọi tư tưởng, lời nói và việc làm của ta, nhất là phải sợ phạm tội làm mất lòng Người.
-         Kính trọng và yêu mến đạo lý và các thừa tác viên của Chúa, và can đảm tuyên xưng niềm tin nơi Người.
3.      Đối với cha mẹ:
a.       Bổn phận yêu mến cha mẹ:
Yêu mến cha mẹ là một tâm tình tự nhiên ai cũng có, được thể hiện qua:
-         Đức phục tùng: vui vẻ tuân theo những gì cha mẹ dậy bảo trong quyền hạn của các ngài mà không phiền trách, oán hận.
-         Hỏi ý kiến cha mẹ bằng những lời tao nhã.
-         Không được làm ô danh, xấu tiếng cha mẹ.
-         Không có những cử chỉ, lời nói khinh bỉ hay sỉ nhục các ngài, dù khi già yếu  ốm đau, lẩm cẩm v.v..
b.      Bổn phận kính trọng cha mẹ:
-         Cầu nguyện cho cha mẹ hằng ngày.
-         Có những hành vi, cử chỉ tôn kính các ngài cách xứng hợp trong mọi nơi mọi lúc.
-         Luôn giữ một tâm hồn ngay thẳng với các ngài.
-         Luôn tỏ ra tình yêu với các ngài qua sự ân cần và vui tươi.
4.      Đối với người phụ trách:
Danh từ người phụ trách là một danh từ có ý nghĩa rất rộng về mặt đạo đức cũng như thế trần, bao gồm tất cả những ai thay mặt cha mẹ mà hướng dẫn chúng ta nên người trong từng lãnh vực chuyên môn. Xét về mặt đạo đức thì đó có thể là một linh mục giúp chúng ta trong đường thiêng liêng, hoặc một giáo lý viên, hoặc một huynh trưởng v.v...
Người phụ trách là đại diện cha mẹ, nên những gì đã nói về cha mẹ đều có thể áp dụng cho người phụ trách, nhất là sự thành thật, cởi mở và vâng lời, vì các ngài có trách nhiệm hướng dẫn chúng ta nên người.
5.      Đối với mọi người:
a.      Tích cực:
-         Khi bắt buộc phải nhắc nhở những khuyết điểm của anh em, thì hãy nhắc nhở một cách thận trọng, lịch thiệp và tế nhị.
-         Kiên nhẫn chịu đựng những nết xấu của anh em, và luôn sẵn lòng tha thứ cho lỗi lầm của anh em.
b.      Tiêu cực:
-         Không bao giờ đặt tên riêng cho ai cả.
-         Không bao giờ nhạo cười về những khuyết tật thể lý hay tinh thần của người khác, vì dễ gây bầu khí bất hòa trong đời sống chung.
-         Không nên quá nhạy cảm với những lời đùa chơi của người khác.
-         Trách những thái độ, ngôn ngữ, hành vi kiêu căng, vì dễ làm cho mọi người xa lánh.
-         Không nên có những cử chỉ, điệu bộ, lời nói giả dối, nịnh hót, thiếu tự nhiên v.v...
-         Đối với người lạ hay khách ngoại kiều, đừng hỏi han một cách tò mò tọc mạch.
-         Không nên quá dễ ban lời khuyên cho người không muốn xin ta.       
-         Tránh những lời nói cứng cỏi, chua chát, vì một giọt mật bắt được nhiều ruồi hơn một thùng giấm.
-         Không nên quá thân mật với người mới gặp lần đầu.
-         Kính trọng và yêu mến mọi người, nhưng chỉ thân với một số ít.
6.      Đối với chính mình:
Ai không lịch sự với chính mình, thì cũng không lịch sự với người khác. Đó là lý do tại sao chúng ta lại phải lịch sự với chính mình nữa: Người lịch sự không bao giờ làm điều gì bất nhã với chính mình; dù chỉ có một mình, người lịch sự cũng giữ những điệu bộ, cử chỉ theo đúng phép lịch sự, không phải là để đẹp lòng người khác, nhưng là vì yêu vẻ đẹp của lịch sự, và vì Thiên Chúa hằng thấy ta luôn.
II. THỰC HÀNH
1.      Nhà ở của người lịch thiệp
* Nhà tư: Ba nguyên tắc lịch sự dành cho nhà tư là
-         Đơn sơ: không quá sang trọng, cầu kỳ không cần thiết.
-         Trật tự: sắp xếp có chỗ riêng biệt để làm việc, ngủ nghỉ, tiếp khách, ăn uống.
-         Sạch sẽ: quét dọn, lau chùi thường xuyên.
* Chung cư: Để đời sống trong chung cư giữ được bầu khí an hòa, mỗi người phải biết quí trọng sự an lành và tự do cá nhân của người khác trong những điều tế nhị, như:
-         Tránh những điều tuy nhỏ bé nhưng có thể gây mất lòng.
-         Có việc xích mích, phải đoán xét cẩn thận rồi mới nói, nói nhẹ nhàng, tuyệt đối không buôn chuyện, nói bóng nói gió.
-         Về vệ sinh chung, nên có sự phân công đồng đều.
-         Người ở nhà trên cần giữ yên lặng cho nhà dưới, nhất là lúc nghỉ trưa và tối.
-         Không nên thân với nhau quá, nhưng hãy quí nhau như khách để giữ được tình nghĩa lâu bền.
-         Không nên xem người khác ăn gì, uống gì, cũng không nên tò mò vào chuyện riêng, khách khứa riêng tư của người khác.
-         Đặc biệt giữ thinh lặng, không nói to mở máy hát to trong những giờ ngủ nghỉ.
2.       Điệu bộ của người lịch thiệp:
* Toàn thân: toàn thân tự nhiên, thẳng thắn, không quá cứng rắn, cũng không quá mềm nhũn.
* Đầu cổ: giữ ngay ngắn, đừng vẹo vọ, ngông nghênh.
* Nét mặt: tươi tỉnh, đứng đắn, tự tin sẽ gây thiện cảm.
* Vầng trán: đừng nhăn nhó, nhưng tự nhiên, cởi mở.
* Đôi mắt: đừng ngó ngang ngửa, cũng đừng liếc dọc ngang, hay nhìn chằm chằm vào người khác, nhất là với người khác phái.
* Miệng: nên khép lại, tập thở bằng mũi vừa vệ sinh, vừa dễ coi.
* Đôi tay: đừng thọc vào túi quần, chống nạnh hay chắp tay sau lưng; cũng đừng gãi tai cạy mũi, cạo răng, bẻ đốt tay...
* Đứng: toàn thân phải thằng thắn, đừng đứng một chân, dựa lưng vào tường hay bắt chéo chân. Khi đứng, nhớ đừng chắn ngang mặt người khác, không đứng giữa cửa, giữa đường.
* Ngồi: khi ngồi, toàn thân giữ thẳng, hai tay nên để trên gối hay trên bàn. Không nên bắt chân chữ ngũ. Trước khi ngồi, phải xin phép chủ nhà, và đợi chủ nhà mời ngồi.
* Dáng đi: dáng đi biểu lộ tính tình, không nên đi quá chậm chạp, uể oải, hoặc hấp tấp. Khi đi chơi với người khác, phải nhường chỗ tốt cho người khác.
3.      Người lịch thiệp đối với các sinh hoạt riêng tư:
 * Đối với tha nhân:
-         Tôn trọng suy nghĩ, tình cảm và ý muốn của người khác.
-         Không nên làm mất mặt ai trước đám đông.
-         Hãy tập cách khuyến khích thiện chí của người khác.
-         Có thể thắt nhặt tiền bạc với người ngang hàng, nhưng nên rộng rãi với người dưới tay.
-         Phải yêu thương, lịch sự, và biết ơn cả những người giúp việc cho ta.
* Đối với láng giềng: Không buộc phải chơi thân, nhưng phải làm quen những người sống chung quanh ta, và tránh làm phiền lòng láng giềng, cụ thể là:
-         Vặn tivi, radio vừa đủ nghe khi đã về khuya.
-         Cũng tế nhị khi sử dụng chuông điện, kẻo đánh thức cả xóm.
-         Đừng nghe trẻ con mà mất lòng người lớn.
-         Nếu không may gặp người láng giềng ăn nói ngang tàng, nên chịu thua là hơn, vì “có những điều người lịch sự không thể tranh hơn kém được” (Phạm Cao Tùng).
4.      Chào hỏi:
Chào hỏi là cách thế thường gặp biểu lộ sự kính trọng và tình yêu mến đối với mọi người ta gặp. Người dưới có bổn phận chào hỏi khi gặp người trên. Nhưng phải chào hỏi thế nào khi gặp người trên?
-         Nếu đang đội mũ, nón, ta phải giở nón ra, đầu hơi cúi xuống và miệng nói: chào thầy, chào ông, chào bà v v...
-         Nếu đầu trần, thì hai tay xếp trước ngực và hơi cúi đầu xuống, miệng nói như trên.
* Ta có thể chào bằng cách bắt tay:
-         Khi bắt tay, tay phải ta nắm chặt tay phải người kia. Đừng bắt cách gượng gạo, cũng đừng xiết chặt quá hay nắm tay người ta mà lúc lắc như muốn thử sức.
-         Người dưới phải đợi người trên đưa tay ra trước rồi mới bắt.
-         Gặp nhiều người một lúc, thì lần lượt bắt tay từng người, đừng bắt tay chéo nhau, coi không lịch thiệp.
5.      Giới thiệu:
Giới thiệu là việc thường làm để cho những người chưa quen biết nhau có thể nói chuyện, cư xử dễ dàng hơn.
-         Bao giờ cũng giới thiệu người dưới cho người trên. Trong lời giới thiệu, phải nói đến danh tánh và chức nghiệp.
-         Lúc nào nên giới thiệu? Bất kỳ khi nào và ở đâu, lúc ta nhận thấy cần cho những người đã quen biết ta được dễ nói chuyện, xưng hô, giao tiếp... với nhau thì ta nên giới thiệu.
6.      Thăm viếng:
* Lý do thăm viếng:
-         Khi mới đến cũng như khi sắp rời khỏi một nơi nào, ta có bổn phận thăm viếng một số người mà nếu không đến thăm sẽ lỗi phép xã giao, như những người có liên hệ công tác, hoặc láng giềng  v.v..
-         Khi có một vị bề trên nào mới đến cư ngụ trong khu vực của ta, ta cũng phải đến thăm.
-         Khi một người thân quen gặp rủi ro tai nạn, đau ốm tang chế, hoặc những dịp vui mừng như sinh nhật, lễ quan thầy, ngày tết v.v..
* Thời gian thăm viếng:
-         Nên hẹn trước giờ thăm, nếu không, phải biết chọn giờ nào thuận tiện cho chủ nhà.
-         Nếu chuyện không khẩn cấp, nên hẹn giờ trước.

* Biết cách rút lui:
-         Một cuộc viếng thăm thường không nên kéo dài quá 15 phút. Phải biết rút lui khi chủ nhà còn quyến luyến ta.
-         Khi muốn ra về, chúng ta sẽ nói:
-         “Tôi làm rộn ông bà nhiều” hoặc “chúng tôi lạm dụng thời giờ của ông bà quá nhiều”, hoặc “Để anh chị nghỉ, chúng tôi xin kiếu” v v...
7.      Tiếp khách:
Khi có người thăm viếng thì cũng có người tiếp khách. Ta dã học cách thế quan tâm thăm viếng người khác, thì cũng cần biết cách đáp lại sự quan tâm thăm viếng của họ.
* Khi khách vừa đến: Khi vừa nghe gõ cửa hay nhấn chuông, chủ nhà hãy nhanh nhẹn mở cửa và mời khách vào.
* Trong khi tiếp khách:
-         Sau khi mời khách ngồi, chủ nhà ân cần tiếp đón với vẻ ưu ái trên khuôn mặt, cử chỉ, lời nói...
-         Dù khách có kéo dài câu chuyện, ta hãy nhẫn nhục chịu đựng, đừng lộ vẻ khó chịu bực dọc, như xem đồng hồ, ngó ra cửa...
-         Nếu có chuyện thật khẩn cấp, ta lịch sự nói: “rất tiếc vì có công tác khẩn cấp, xin ông cảm phiền”.
-         Đang nói chuyện, có người thứ ba xin vào, ta lịch sự xin khách cảm phiền đợi chút để đón người thứ ba. Nếu người trước chưa muốn đứng dậy, và nếu cần, ta có thể lịch sự xin lỗi người trước và xin phép để tiếp người khác sau.
* Lúc khách cáo biệt: Khi khách nói ‘tôi làm rộn ông bà nhiều’, chủ nhà nói một câu tỏ lòng quyến luyến, như ‘anh chị về sớm thế’, v.v...

8.      Trên các phương tiện giao thông:
Trên các phương tiện giao thông là nơi ta gặp rất nhiều người, đủ mọi thứ hạng, mọi văn hóa... Vì thế đó là nơi ta cần phải biết những nguyên tắc chung, để khỏi làm phiền lòng ai:
* Chỗ ngồi trong xe:
     -  Chỗ trọng nhất là ở phía sau, bên tay phải, theo thứ tự như hình sau:
Tài xế       3
                
 2              1


Tài xế              4

 3         2          1

            
           

              xe bốn chỗ ngồi                         xe ba chỗ ngồi
* Lên xuống xe:
-         Lúc lên: người lớn lên trước.                                        
-         Lúc xuống: người nhỏ xuống trước để giúp người lớn xuống.
* Trên xe công cộng:
-         Nên nhường chỗ cho người già yếu, bệnh hoạn, tàn tật.
-         Muốn hút thuốc hay mở, đóng cửa gió nên hỏi người bên cạnh.
-         Đừng để lấn hành lý của mình sang chỗ người khác.
* Dùng bữa trên xe:
-         Nếu cần dùng bữa, nên kín đáo, gọn gàng, sạch sẽ.
-         Đừng xem người bên cạnh ăn uống gì, hoặc đọc những gì.
9.      Những câu nói cửa miệng của người lịch thiệp:
Có những lời nói nằm sẵn trên môi người lịch thiệp nhằm làm cho cuộc sống luôn tươi đẹp một lòng bác ái chân tình:
* Cám ơn: hai tiếng “cám ơn” tuy nhỏ mà trọng, và là món ăn phải dùng nóng, để nguội mất ý nghĩa. Khi được cám ơn, ta cũng phải biết trả lời. Có thể dùng một số mẫu sau:
-         Chẳng dám ạ.
-         Có đáng gì đâu.
-         Đó là bổn phận của tôi v.v...
* Xin lỗi: Khi đi đường, vô ý đụng chạm một người qua đường, hoặc những trường hợp tương tự, v.v.. ta hãy dùng tiếng xin lỗi. Cùng với tiếng “cám ơn”, tiếng “xin lỗi” luôn phải được nằm sẵn trên đầu môi chúng ta; cũng như chúng ta phải biết trả lời khi có người xin lỗi mình, ví dụ:
-         Thưa ông, không sao ạ.
-         Thưa bà, có gì đâu. v.v..
* Phiền ông: Muốn nhờ ai chỉ đường, hoặc muốn hỏi thăm ai điều gì, ta nói: “phiền ông, phiền bà... chỉ giúp cho....”
* Xin phép ông: Ở chỗ đông người, khi có việc gấp phải vượt lên trước những người khác, ta nói: “xin phép ông”. Còn khi được người khác hỏi xin phép, ta hãy nhường bước và đáp: “xin mời ông”.
           
C. GIAO TẾ LỊCH THIỆP
I. LỊCH THIỆP NƠI BÀN TIỆC
Chìa khóa thành công trong giao tế không ở tại tiếp đãi những món quí giá cho bằng sự am tường và áp dụng đúng phép xã giao.
1.      Phải mời những ai?
a.      Về số người: Mời số người vừa đủ dung nạp trong nhà mình.
b.      Về thành phần:
-         Cơm gia đình: mời người trong thân quyến hoặc vài người bạn thân.
-         Dịp lễ: mời rộng hơn, các bạn đồng sự, hoặc những chỗ giao thiệp, quen biết xa hơn.
2.      Cách đãi ăn:
a.      TIỆC TRÀ: Thường tổ chức tại phòng khách, nơi đây nên đặt thêm nhiều bàn nhỏ để ly cốc và một bàn dài để thức ăn.
* Giờ mời: nên mời vào lúc người ta có nhiều giờ rảnh hơn, và không trùng với bữa ăn tối ở nhà họ.
* Thức ăn: các thức mặn, thường là đồ nguội, và bánh ngọt.
* Thức uống: các loại nước giải khát, không có rượu mạnh.
* Cách tiếp khách: Khi thấy khách đông đủ, chủ nhà sẽ bưng thức ăn mời khách, từ những người có địa vị trước; đồng thời mời nước. Có thể nhờ người khác làm thay, miễn là biết cách tiếp đãi.
* Cách ăn uống:
-         Khi được mời ngồi, hãy ngồi tự nhiên, nhẹ nhàng.
-         Những khăn tay nhỏ, người lịch sự chỉ dùng để lau qua mấy đầu ngón tay. Không nên chê bánh trái dọn ra cho mình.
-         Nước nóng không nên thổi, mà chờ cho nguội rồi uống. Khi uống, tay phải cầm tách, tay trái cầm đĩa hứng ở dưới.
-         Khi chủ nhà tiếp rước, ta phải để ý trông và xin rót vừa đủ.
b.      TIỆC CỖ: là tiệc đãi trong phòng ăn, có bàn ăn và chỗ ngồi nhất định.

* Giờ mời:    
-         Bũa trưa: từ 11 giờ hay 12 giờ
-         Bữa tối  : từ 18 giờ 30 hay 19 giờ 30
* Bầy bàn:
-         Bàn trải khăn trắng, chỗ ngồi cách nhau 60 cm.
-         Nếu là bữa ăn tây về buổi chiều, phải đặt hai đĩa ở mỗi chỗ: một sâu để ăn súp, một nông để ăn cá. Bữa sáng không có súp thì chỉ đặt hai đĩa nông.
-         Trước đĩa bầy ba ly: một ly lớn để uống nước, một ly vừa để uống rượu vang đỏ, một ly nhỏ để uống rượu vang trắng.
-         Bên phải đĩa, đặt một con dao, một cái muỗm (nếu ăn sáng thì không cần muỗm); bên trái đặt một cái nĩa (xiên).
-         Khăn ăn gấp nhỏ đặt trên đĩa.
-         Nếu là bữa ăn Việt Nam, trước mặt mỗi người úp một chén nhỏ, bên dưới xếp một cái khăn ăn; bên phải đặt một cái muỗm và một đôi đũa.
-         Nếu đãi rượu tây, thì cũng bày ba ly như trên; còn nếu đãi rượu ta chỉ đặt một ly là đủ.
-         Giữa bàn có một ống tăm sạch sẽ, tinh khiết.
-         Khách ăn xong, dọn hết chén bát, đũa muỗm đi, rồi mới bưng đồ tráng miệng lên. Cần có đôi ba người để phục vụ cho mau lẹ.
-         Trong bữa tiệc trịnh trọng, nên để thực đơn kê các món ăn theo thứ tự ở giữa bàn, để khách tuỳ thích ăn uống.
* Cách xếp đặt chỗ ngồi:
-         Chỗ danh dự: ở gần chủ nhà, thường ở hai bên chủ nhà theo kiểu xếp đặt của người Việt Nam; lệ thường, người nhà phải nhường cho khách.
-         Đừng tằn tiện chỗ ngồi; đừng xếp dư số người cho mỗi bàn.
-         Dưới đây là sơ đồ một bàn ăn với các chỗ ngồi xếp theo thứ tự cao thấp theo kiểu Tây phương:
* Cách xếp đặt bàn theo phong tục Việt Nam:
* Lúc khách đến:
-         Khách lịch sự bao giờ cũng đến trước 5 – 10 phút.
-         Người chủ nhà hãy giữ đúng giờ đã mời; có thể đợi khách đến trễ nhiều lắm là 10 phút.
-         Chủ nhà cần ở trong nhà đón khách, chào hỏi và giới thiệu khách với nhau; mời khách ngồi và mời trà thuốc, đợi khách đến đầy đủ. Chỉ khi có khách quí thì mới ra cổng đón.
-         Nếu có rượu khai vị, nên dùng vào lúc này.
-         Nếu mời đông khách, chủ nhà nên dọn ghế phòng khách cho từng nhóm để dễ nói chuyện trong khi chờ đợi.
-         Khi dọn bàn xong, chủ nhà mời khách vào bàn và xếp chỗ cho khách, hoặc có tờ giấy nhỏ ghi tên để trước ở từng chỗ.
* Lúc khách ra về:
-         Trong bữa tiệc đông người, lúc ra về, khách chỉ cần đến chào chủ nhà rồi về, không phải chào những người có mặt.
-         Nếu khách ra về không đều, chủ nhà phải xếp đặt có người ở trong cầm khách, có người ra ngoài tiễn khách.
-         Nếu có người khách quí ra về, chủ cần tiễn tới ngõ, thì nói lời xin phép những người có mặt: “các ông cho phép”.
II. LỊCH THIỆP KHI TIẾP KHÁCH ĐỖ NHÀ
1.      Bổn phận của chủ nhà:
a.                                                                          Nguyên tắc chung:
“Phải làm cho người ta coi nhà mình như nhà của họ”
nghĩa là:   
-         Tôn trọng tự do của khách.
-         Giữ mực tình cảm trung bình: đừng quá săn đón lúc đầu rồi lạnh nhạt về sau.
b.      Cách thức đón tiếp:
Khi được báo tin trước, ta có thể đến tận sân ga, bến tàu để đón khách. Mặt khác, lo dọn dẹp phòng riêng cho khách với tất cả mọi thứ cần thiết: giường, chiếu, gối, nơi rửa mặt, guốc dép, xà bông, gương lược v.v... Tất cả đều phải sạch sẽ.
c.      Thời gian khách lưu trú:
-         Về cơm nước: đừng trịnh trọng buổi đầu rồi sau đó quá sơ sài, nhưng nên giữ đều đều; nếu muốn có một bữa thịnh soạn hơn thì nên chờ đến khách gần ra về.
-         Có thể tổ chức vài cuộc giải trí: tham quan, xem hát, ăn tiệm...
-         Luôn giữ một bầu khí vui vẻ, đừng đánh chó đuổi mèo v.v...

2.      Bổn phận người khách trọ:
a.      Nguyên tắc chung:
      “Nhập gia tuỳ tục”: trước khi đi nên mang theo đồ dùng cá nhân, khăn mặt, bàn chải đáng răng, gương lược v.v...
b.      Trong thời gian ở trọ:
-         Phải nhã nhặn với người, vật trong nhà mình trú ngụ.
-         Biết khen tặng: tài làm bếp của bà chủ, con cái chủ nhà...
-         Biết tặng quà: khi đi phố, đừng quên mua quà cho trẻ.
-         Biết dành trả tiền phí tổn khi cùng đi chơi với chủ nhà.
-         Không quên thù lao cho người giúp việc trong nhà.
-         Không đòi quá đáng những gì không cần thiết, làm phiền chủ nhà.
-         Đừng bừa bãi, vứt bỏ lộn xộn các đồ vật trong nhà.
-         Không tọc mạch, tò mò đến sổ sách, giấy tờ trong phòng.
c.      Khi về đến quê nhà:
Ngay khi về đến nhà, nên biên thư cám ơn chủ nhà; và nếu có dịp gần đó, ta có thể gởi món quà gì xứng đáng với lòng thảo của chủ nhà.
III. LỊCH THIỆP KHI NÓI CHUYỆN
1.      Giọng nói:
-         Giọng nói phải rõ ràng, rành mạch, nói giản dị, miễn làm sao cho người đủ nghe, đủ hiểu.
-         Tránh vừa nói vừa cười nghiêng ngả, nói oang oang, ầm ĩ, hoặc dùng những kiều nói cầu kỳ, nói lóng để tỏ ra khác người.
2.      Dùng tiếng lịch sự và chính xác:
Trong lúc nói chuyện, cần trách hai thái cực: một là dùng những câu văn quá bay bướm, quá “tiểu thuyết” làm mất tự nhiên, hai là dùng những từ quá tầm thường, quê kệch, tiếng lóng v.v...
        Ví dụ:
        ĐỪNG NÓI                      NÊN NÓI
        Con mẻ                               Bà ấy                       
        Thằng chả                          Ông ấy
        Ông già tui                         Ba tôi
        Tao mới tậu cái đổng       Tôi mới mua cái đồng hồ
        Mày nói bậy                      Có lẽ anh lầm chăng v.v...
3.      Những đức tính phải giữ khi nói chuyện:
a.      Thận trọng:
Đức Giám mục Bùi Tuần có viết: “Lời nói là người, có người càng nói nhiều, càng tỏ ra mình trống rỗng. Người ta dễ khen kẻ ít nói. Chẳng ai khen kẻ nói nhiều. Nói nhiều chưa chắc đã làm nhiều. Làm nhiều nói ít thì hơn là nói nhiều làm ít. Nói hay, không tại hay nói. Thà ít nói mà tư tưởng phong phú, rõ rệt, còn hơn là hay nói mà tư tưởng nghèo nàn, luộm thuộm. Nói nhiều khó tránh khỏi sai lỗi (đa ngôn đa quá) và dư thừa. Sai lỗi tất nhiên là không tốt, mà dư thừa cũng chẳng là điều hay. Do đó, chọn lời mà nói, chọn chữ mà dùng. Ăn phải nhai, nói phải nghĩ”
b.      Nghiêm túc:
Không nói những chuyện, lời thiếu thanh nhã, một lời hai ý, kẻo người ta lại có dịp đánh giá ta: “Lòng ứa đầy những gì, thì miệng nói ra” (Mt 12, 34).
c.      Khiêm tốn:
Không nói về mình, dù là nói về điều tốt hay điều xấu
d.      Bác ái:
Đừng có những lời nói chua cay, hoặc châm biếm mỉa mai.
4.  Nghệ thuật nói chuyện:
      Tất cả nghệ thuật nói chuyện là phải biết nghe lời người khác hơn là chỉ nghĩ đến lời của mình. Biết nghe người khác là bí quyết để kiếm được nhiều bạn và làm cho người ta nghe mình.
IV. PHÉP LỊCH SỰ KHI DÙNG THƯ TỪ - DANH THIẾP – ĐIỆN THOẠI
1.      Thư tín
a.      Tổng quát:
-         Viết thư cũng như nói chuyện, lời lẽ phải êm đẹp để làm người xem vui lòng. Hơn nữa, chữ viết còn mãi nên phải thận trọng trong từng chữ, từng câu, vì nó sẽ là bằng chứng về sự lễ độ hay bất nhã của ta.
-         Có nhiều loại thư tín: gia đình, xã hội, nghề nghiệp v.v...
-         Lời văn trong thư phải giản dị, rõ ràng, vắn tắt.
-         Xin ân huệ thì phải đơn sơ, thành thật.
-         Thường không nên nhờ người trên viết thư dùm hay chuyển lời cho ai. Nếu có, thì phải dùng lời nói rất lịch sự: “xin ba vui lòng giúp”.
-         Khi nhắc đến người có chức quyền, phải kèm theo chức vụ người đó một cách kính trọng.
b.      Nội dung:
-         Ghi địa danh, ngày, tháng, năm.
-         Mở đầu: chào hỏi (vắn tắt)
-         Thân bài: diễn tả những gì mình muốn cho người khác biết, như cám ơn, chúc mừng, hay xin một điều gì v.v...
-         Cuối thư: cám ơn, tỏ  lòng thương mến, kính trọng.
-         Viết xong rồi, nếu thấy quên điều gì, hay muốn viết thêm điều gì nữa thì đề P.S. (viết tắt của Post Scriptum), hoặc T.B. (tái bút).
-         Là người công giáo, nên có những lời cầu chúc của người công giáo ở cuối thư.
c.      Hình thức:
-         Giấy phải sạch, nếu viết cho thân nhân ta có thể dùng nửa tờ, còn viết cho cấp trên thì phải dùng nguyên tờ giấy viết thư (giấy cỡ 21x27 cm).
-         Viết sạch, rõ ràng, không tẩy xóa, không dài dòng.
-         Viết phải thẳng hàng, thẳng lề; để lề rộng vừa phải.
-         Kính thưa, kính gửi... (ghi tước hiệu).
-         Chừa một khoảng rộng giữa câu kính thưa... đến câu đầu tiên.
-         Không viết kín mặt giấy, nhất là khi viết cho người trên.
-         Nếu ghi ngày tháng và địa danh ở đầu thư, thì ghi ở tay mặt, còn nếu ghi ở cuối thư, thì ghi ở bên trái.
-         Ký tên rõ ràng, nên viết đầy đủ họ tên và địa chỉ ngay bên dưới chữ ký nếu ta gửi thư cho người nào đó lần đầu, dù bên ngoài phong bì cũng đã có địa chỉ.
d.      Cách để bao thư và dán tem:
-         Phần địa chỉ người gửi để ở góc trên bên trái phong thư, hoặc phía sau phong thư.
-         Phần địa chỉ người nhận thư đề ở giữa phong thư bên phải, ghi đầy đủ tên và chức vị người nhận, số nhà, tên đường phố, làng xã, tỉnh, thành phố, nước. Ghi rõ ràng, sáng sủa.
-         Dán tem ở góc trên bên phải phong thư.
* Cần lưu ý:
-         Nhận được thư phải trả lời càng sớm càng tốt.
-         Thư viết cho công sở để hỏi thăm tin tức hay công việc gì, bao giờ cũng phải đính kèm tem thì mới mong được trả lời.
-         Thư gửi tay, thường để ngỏ, không dán.
-         Tuyệt đối không bao giờ được xem thư người khác.
2.      Danh thiếp:
a.      Hình thức:
-         Danh thiếp là những thiếp nhỏ biên tên người dùng trong khi giao tiếp với người khác.
-         Có thể chọn khổ giấy vuông hay chữ nhật. Về chức vị phải nhã nhặn, nên ghi chức vị nào chính và trọng yếu nhất.
b.      Công dụng:
Dùng thay cho thư khi có việc phải biên mấy chữ:
-         Tặng quà: Gửi món quà kèm danh thiếp, không viết gì cả.
-         Để tự trình danh tánh khi đến nhà lạ.
-         Để báo tin mình có đến thăm ai trong lúc họ đi vắng: trao cho người nhà danh thiếp đã bị bẻ góc trên bên phải.
-         Để chúc tuổi dịp tết, trên danh thiếp có vài lời chúc mừng.
-         Để chia vui dịp lễ bổn mạng, sinh nhật, cưới hỏi, v.v... gửi danh thiếp với vài lời chúc mừng.
-         Phân ưu việc tang chế: gửi danh thiếp với ít lời phân ưu.
3.      Điện thoại:
a.      Mục đích:
Điện thoại là phuong tiện giao dịch rất tiện lợi nhằm để nói những câu chuyện quan trọng và khẩn cấp. Không dùng để nói chuyện phiếm.
b.      Cách sử dụng:
-         Lựa thời gian thuận tiện cho người được gọi.
-         Giảm bớt những câu xã giao dài dòng, nói đơn sơ và ngắn gọn hết sức có thể. Đừng làm bộ tịch mất giờ.
Nếu cần gọi về tổng đài thì nói vắn tắt: “Alô, xin cho tôi số một hai chín không (1290). Người được gọi trả lời: “Alô, đây là X, có phải ông M đó không?” rồi vào ngay câu chuyện.



 Phụ lục 1:
PHƯƠNG PHÁP TỰ LUYỆN CỦA BENJAMIN FRANKLIN

Cũng vào hồi đó (1784), tôi có cuồng vọng muốn trở nên một người đạo đức hoàn toàn. Tôi ước ao sống một cuộc đời không phạm mảy may tội lỗi. Tôi hết sức khắc phục mọi dục vọng, mọi thứ xấu có thể đưa đến tội lỗi. Hồi đó tôi tưởng rằng việc gì phải việc gì trái tôi đều thông cả, và không có lý do gì cấm tôi không làm được điều thiện và tránh được điều ác.
Nhưng không bao lâu tôi thấy rằng việc đó khó hơn là tôi tưởng  tượng. Khi tôi lưu ý để tránh mọi tội lỗi, thì vô tình tôi lại rơi vào một tội lỗi khác. Hễ sơ ý là thói xấu trở lại, và dục vọng nhiều khi đàn áp cả lý trí. Tôi nghiệm ra rằng, tin tưởng suông ở đạo đức không chưa đạt tới hoàn thiện được thì hãy nên tập luyện những tính tốt và từ bỏ tính xấu dần dần. Vì vậy mà tôi nghĩ ra một phuong pháp như sau:
Tôi lập một bản kê khai các đức tính mà tôi thấy nêu ra trong các sách vở. Nhưng tôi thấy có nhiều tác giả cùng dùng trong một danh từ, nhưng mỗi ông lại định nghĩa một cách, có thêm bớt ít nhiều. Tỉ dụ: điều độ, thì có người chỉ dùng về việc ăn uống, có người lại dùng cả về sự điều hòa tính tình, dục vọng, cuồng vọng có thể chất hay của tinh thần. Muốn cho được rõ ràng, tôi chủ trương nên dùng nhiều danh từ mà ít nghĩa còn hơn là ít danh từ mà nhiều nghĩa.
Tôi thống kê được tất cả 13 đức tính mà tôi thất là cần thiết đối với tôi, và bên cạnh mỗi danh từ chỉ một đức tính, tôi viết mấy chữ để định nghĩa theo quan niệm của tôi.
Bảng danh sách ấy như sau:
1. Điều độ: Không ăn đến chán, không uống đến say.
2. Yên lặng: Không nói nếu lời nói không có ích cho người khác hoặc cho bản thân mình. Tránh những câu chuyện ba hoa.
3. Thứ tự: Sắp đặt mọi vật vào chỗ riêng, mọi việc vào một giờ nhất định.
4. Quyết tâm: Việc gì thấy cần thì phải quyết tâm làm, việc gì đã quyết tâm thì làm cho kỳ được.
5. Tiết kiệm: Chỉ tiêu những việc có ích cho mình và cho người khác.
6. Chuyên cần: Không phí thời giờ. Lúc nào cũng làm việc hữu ích. Tránh những việc vô ích.
7. Thành thật: Không nói xấu người, có những ý nghĩ lành mạnh và đứng đắn. Nếu nói điều gì, phải nói cho đúng.
8. Công bằng: Không làm hại người khác, và nhớ hưởng những gì mình được hưởng.
9.  Dung hòa: Tránh mọi thái cực. Chịu đựng những điều trách mắng nếu thấy mình có lỗi.
10. Sạch sẽ: Quần áo, nhà cửa, thân thể phải thật sạch sẽ.
11. Yên tĩnh: Tránh phiền não về những việc vặt thường xẩy ra hoặc không tránh được.
12. Trong sạch: Không nên gần đàn bà ngoài sự cần thiết về nhu cầu sinh lý và duy trì nòi giống. Tránh trác táng, hại sức khỏe, hại thanh danh của mình và của người khác.
13.  Khiêm tốn: Noi gương Đức Giêsu và Socrate.
Ý định của tôi là tập luyện những đức tính bằng những thói quen nên tôi cho rằng không nên tham vọng theo cả bấy nhiêu đức tính một lúc, mà trái lại phải chú trọng từng đức tính một. Khi nào nắm vững được một đức tính rồi thì mới bắt đầu rèn luyện đức tính khác, và cứ lần lượt như vậy cho đến khi đạt được cả 13 đức tính.
Tôi xếp đặt các đức tính theo thứ tự như trên, vì cho rằng hễ có được đức tính đầu thì dễ rèn luyện các đức tính sau. Chẳng hạn, tôi để đức tính điều độ lên trước tiên, vì tôi quan niệm rằng có điều độ thì đầu não mới sáng suốt và có như vậy thì mới đủ tỉnh táo để đề phòng các tính xấu trở lại và tránh những dục vọng luôn luôn đe dọa. Một khi đã có đức tính điều độ thì việc tập yên lặng trở thành một việc rất dễ. Vì đồng thời với rèn luyện đức tính, tôi cũng muốn bồi bổ thêm trí tính, nên tôi cho rằng trong khi nói chuyện cần nghe hơn là cần nói, tôi cố gắng bỏ tính hay nói ba hoa bông đùa. Vì vậy, nên tôi đặt đức tính ấy vào ngôi thứ hai. Ngôi thứ ba là thứ tự, vì tôi cho rằng có thứ tự thì tôi mới có rộng thời giờ để học tập. Đức tính quyết tâm sẽ giúp tôi giữ vững ý định rèn luyện những đức tính khác về sau. Tiết kiệm và chuyên cần sẽ giúp tôi trang trải công nợ, không bị ràng buộc vào người khác. Như vậy, tôi mới có thể dễ dàng thực hành được đức tính thật thà và công bình...
Quan niệm như vậy rồi, tôi bèn bắt chước ông Pythagore, lập một bản theo kiểu vẽ sau đây để tiện việc kiểm điểm:
Tôi đóng riêng một quyển vở, và tôi dành riêng cho mỗi đức tính một trang giấy. Tôi dùng mực đỏ kẻ tờ giấy thành 7 hàng dọc và 13 hàng ngang. Mỗi hàng dọc tôi để riêng một ngày trong tuần lễ, và mỗi hàng ngang tôi dành riêng cho một đức tính. Mỗi ngày tôi tự kiểm một lần, và hễ thấy phạm vào đức tính nào thì tôi lấy bút đáng dấu vào ô đó.
Tôi quyết tâm cứ mỗi tuần thì chú trọng đến riêng một đức tính. Nghĩa là trong tuần lễ đầu, tôi chỉ có giữ điều độ, còn những đức tính khác thì tôi ít chú trọng, nhưng tối đến hễ tự kiểm thảo thấy có lỗi thì tôi cũng chấm một chấm. Đến cuối tuần, nếu tôi thấy hàng đầu sạch sẽ, không bị một vết chấm nào, thì tôi kết luận rằng tôi tự rèn luyện được đức tính điều độ, và tôi bắt đầu sang đức tính thứ hai, tức là sang tuần lễ thứ hai tôi phải lo giữ hai hàng đầu sạch sẽ, không có chấm.
Tôi làm như vậy cho đến đức tính cuối cùng, tức là phải trải qua một thời gian là 13 tuần lễ, và trong một năm tôi làm như vậy bốn vòng.  Khác nào một người làm vườn, muốn khử cho hết cỏ trong một khỏang vườn rộng, không đủ sức nhổ hết cả cỏ trong vườn ngay một lúc, mà nhổ mỗi ngày một vạt nhỏ cho thật sạch sẽ, hết vạt này đến vạt khác. Tôi cũng theo cách đó mà nhổ cho hết những tính xấu của tôi, và bằng cách nhổ dần cho hết những dấu chấm trong quyển sách của tôi, hết dòng này qua dòng khác cho đến cuối cùng mong có được quyển sách sạch tinh, sau 13 tháng luyện tập và tự tu...
Vì định nghĩa thứ tự là việc gì cũng làm đúng lúc nên trong quyển sách của tôi, tôi dành riêng một trang để chép một bảng thời khóa biểu dùng trong 24 giờ của một ngaỳ như sau:
BUỔI SÁNG                         
Câu hỏi: Ngày hôm nay sẽ làm điều gì lành?             
5g00: Ngủ dậy, đọc kinh “Đấng Toàn năng”
6g00: Sửa soạn và quyết định công việc trong ngày
7g00: Điểm tâm
8g00 – 11g00: Làm việc
BUỔI TRƯA                    
12g00: Đọc sách, tính tiền
13g00: Ăn cơm
14g00 – 17g00: Làm việc
BUỔI CHIỀU                     
Câu hỏi: ngày hôm nay tôi đã làm gì lành?
18g00: Xếp đặt đồ đạc cho có thứ tự
19g00: Cơm chiều
20g00: Âm nhạc hoặc giải trí 
21g00: Kiểm tra công việc hằng ngày
ĐÊM
22g00 – 24g00: Ngủ


Thế là tôi thực hiện chương trình tự kiểm thảo và tiếp tục mãi trừ vài dịp phải nghỉ ít lâu. Tôi ngạc nhiên thấy có nhiều tội lỗi hơn là tôi tưởng, nhưng tôi cũng sung sướng thấy những tội lỗi của tôi bớt dần.
Để có thể dùng đi dùng lại mãi cuốn sổ có kẻ ô kể trên, và để tránh nạn khỏi phải cạo những chấm đen ghi tội lỗi, vì cạo đi cạo lại nhiều lần hay thủng giấy, tôi bèn lấy những tờ bìa bằng ngà dùng thay giấy. Trên tờ bìa đó tôi kẻ các ô bằng mực đỏ cho lâu phai, còn các tội lỗi thì tôi chỉ việc lau qua bằng một miếng giẻ ướt. Thời gian sau phải hết một năm tôi mới đi được một vòng, và sau đến mấy năm mới xong một vòng, rồi cuối cùng tôi bỏ hẳn, vì tôi bận công việc quá và hay phải đi xa ra ngoại quốc, nhưng bao giờ tôi cũng mang quyển sổ theo (theo B. Franklin, trg. 70- 76)

Phụ lục 2:
THƯ CỦA TỔNG THỐNG LINCOLN
GỬI THẦY GIÁO CỦA CON TRAI

Kính gửi thầy…
Con tôi sẽ phải học tất cả những điều này. Rằng không phải tất cả mọi người đều công bằng, tất cả mọi người đều chân thật. Nhưng xin thầy hãy dạy cho cháu biết: cứ mỗi một kẻ vô lại ta gặp trên đường phố, thì ở đâu đó, sẽ có một con người chính trực; bên cạnh một chính trị gia ích kỷ, sẽ xuất hiện một nhà lãnh đạo tận tâm.
Xin hãy dạy cho cháu biết rằng cứ mỗi một kẻ thù ta gặp ở nơi này thì ở nơi khác ta lại tìm thấy một người bạn. Bài học này sẽ mất nhiều thời gian, tôi biết; nhưng xin thầy hãy dạy cho cháu hiểu rằng một đồng đôla kiếm được do công sức lao động của mình bỏ ra còn quý giá hơn nhiều so với 5 đô la nhặt được trên hè phố…
Xin hãy dạy cho cháu cách chấp nhận thất bại và cách tận hưởng niềm vui chiến thắng. Xin hãy dạy cháu tránh xa sự đố kỵ. Xin dạy cho cháu biết được bí quyết của niềm vui thầm lặng. Dạy cho cháu biết được rằng những kẻ hay bắt nạt người khác là những kẻ dễ bị đánh bại nhất…
Xin dạy cho cháu biết đến thế giới kỳ diệu của sách… nhưng cũng để cho cháu có đủ thời gian để lặng lẽ suy tư về sự bí ẩn muôn thuở của cuộc sống: đàn chim tung cánh trên bầu trời, đàn ong bay lượn trong nắng, và những bông hoa nở ngát bên đồi xanh.
Ở trường, xin thầy hãy dạy cho cháu biết chấp nhận thi rớt còn vinh dự hơn gian lận khi thi. Xin hãy tạo cho cháu có niềm tin vào ý kiến riêng của bản thân, cho dù tất cả mọi người xung quanh đều cho rằng ý kiến đó là không đúng…
Xin hãy dạy cho cháu biết cách đối xử dịu dàng với những người hoà nhã và cứng rắn đối với những kẻ thô bạo. Xin tạo cho cháu sức mạnh để không chạy theo đám đông khi tất cả mọi người đều chạy theo thời thế.
Xin hãy dạy cho cháu biết phải lắng nghe tất cả mọi người nhưng cũng xin thầy dạy cho cháu biết cần phải sàng lọc những gì nghe được qua một tấm lưới Chân lý để cháu chỉ đón nhận những gì tốt đẹp mà thôi.
Xin hãy dạy cho cháu biết cách mỉm cười khi buồn bã… Xin hãy dạy cho cháu biết rằng không có sự xấu hổ trong những giọt nước mắt. Xin hãy dạy cho cháu biết chế giễu những kẻ yếm thế và cẩn trọng trước sự ngọt ngào đầy cạm bẫy.
Xin hãy dạy cho cháu rằng có thể bán cơ bắp và trí tuệ cho người ra giá cao nhất nhưng không bao giờ được để cho ai ra giá mua trái tim và tâm hồn mình.
Xin hãy dạy cho cháu biết ngoảnh tai làm ngơ trước một đám đông gào thét… và đứng thẳng người bảo vệ lẽ phải.
Xin hãy đối xử với cháu dịu dàng nhưng đừng vuốt ve nuông chiều cháu bởi vì chỉ có sự thử thách của lửa mới tôi luyện nên những thanh sắt cứng rắn. Hãy giúp cháu có can đảm biểu lộ sự thiếu kiên nhẫn và có đủ kiên nhẫn để biểu lộ sự can đảm.
Xin hãy dạy cho cháu biết rằng cháu phải luôn có niềm tin tuyệt đối vào bản thân bởi vì khi đó cháu sẽ luôn có niềm tin tuyệt đối vào nhân loại.
Đây quả là một yêu cầu quá lớn, tôi biết, thưa thầy, nhưng xin thầy cố gắng hết sức mình… con trai tôi là một cậu bé tuyệt vời.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Quan Điểm của Mr. Bill Gate về đại dịch chinese virus

Quan điểm của Bill Gate: virus Corona / Covid-19 thực sự dạy chúng ta điều gì? Xuất sắc... Tôi là một người tin tưởng mạnh mẽ rằng có ...