Quan điểm của Giáo hội đối với
Chiến tranh & Hoà bình
GS Nguyễn Thái Hợp, O.P.
Roma, 28/02/2003
Bài đăng ở tập san Định Hướng
Chiến tranh từng là một kinh nghiệm đau thương và hoà bình
luôn luôn vẫn là một trong những khát vọng thâm sâu nhất của nhân
loại. Trớ trêu thay: Mọi người mong mỏi hoà bình, nhưng lịch sử nhân
loại đã được thêu dệt bởi chiến tranh và bạo lực. Không phải vô lý khi
triết gia Hegel viết: lịch sử nhân loại đúng là một “núi sọ” hay “một
thung lũng đầy xương khô” và “những thời kỳ hạnh phúc chỉ là những
trang giấy trắng”.
Sau những thảm hoạ của thế chiến thứ I, nhiều người quả
quyết rằng không bao giờ chiến tranh có thể tái diễn. Họ xác tín rằng
đây phải là chiến tranh cuối cùng. Nhưng chỉ ít lâu sau, thế chiến II đã
bùng nổ với một mức độ tàn phá ghê gớm và thảm khốc hơn. Từ đống
tro tàn của cuộc chiến khốc liệt này, Liên Hiệp Quốc ra đời với lời
nguyền xây dựng hoà bình: “Chúng tôi, các Dân tộc thành viên của
Liên Hiệp Quốc kiên quyết tránh cho các dân tộc tương lai thảm hoạ
chiến tranh” 1
. Thế nhưng từ năm 1946 đến nay đầu vẫn rơi và máu vẫn
chảy, trong 180 chiến tranh địa phương. Khát vọng hoà bình và cố
1
Hiến chương Liên Hiệp Quốc, Lời mở đầu. 4 Nguyễn Thái Hợp
gắng của các dân tộc để giải quyết những xung đột bằng đối thoại vẫn
phải lùi bước trước bạo lực và lý lẽ của kẻ mạnh!
Đâu là quan điểm của Kitô giáo đối với một vấn đề gai góc
này? Giữa chiến tranh và hoà bình, ngừơi Kitô hữu hôm nay phải lựa
chọn đứng về phía nào?
1- Quan điểm của Kitô hữu tiên khởi
Trong suốt hai ngàn năm lịch sử, Giáo hội và các Kitô hữu đã
nhiều lần thay đổi quan điểm trước vấn đề chiến tranh và hoà bình.
Nếu được phép giản lược, chúng ta có thể tóm lược tiến trình phức tạp
đó qua ba điểm chính sau đây: (a) Khởi đi từ thái độ ít nhiều mang tính
“bất bạo động” theo tinh thần bát phúc trong bốn thế kỷ đầu, (b) thế rồi
chuyển qua cố gắng xây dựng một lý thuyết về “chiến tranh chính
nghĩa” để giảm thiểu bao nhiêu có thể những cuộc đổ máu vô ích giữa
tình trạng hỗn loạn và (c) cuối cùng chủ trương tích cực xây dựng hoà
bình.
Nói chung, quan điểm và thái độ của Kitô giáo đối với vấn đề
hoà bình & chiến tranh chịu ảnh hưởng bởi nhân chủng học Kitô giáo.
Con người được quan niệm như một hữu thể tự do, tự lập trong việc
lấy quyết định luân lý và có trách nhiệm góp phần kiến tạo trật tự xã
hội. Kitô giáo luôn dành cho người tín đồ quyền quyết định điều gì là
tốt hay là xấu cho mình. Dĩ nhiên, đây không phải là một chọn lựa dựa
trên cảm tính hay khoái cảm, mà là một chọn lựa phản tỉnh và ý thức
của một lương tâm trưởng thành biết phân định đâu là điều phù hợp
với thánh ý của Thiên Chúa trong điều kiện cụ thể của cuộc sống.
Quan điểm này tương phản với não trạng chung của xã hội đương thời,
thường lấy ý muốn tập thể làm mực thước của thiện hảo và thường
đồng hoá thái độ, cách ứng xử và phán đoán của cá nhân với tập tục
của xã hội. Đạo đức Kitô giáo, trái lại, bảo vệ sự tự do của lương tâm
cá nhân chống lại sự bá chủ của qui ước xã hội, mà cá nhân này là
thành phần. Khi cố gắng bảo vệ và đào tạo lương tâm, luân lý Kitô
giáo cổ võ sự phát triển luân lý và phẩm giá con người. Chiến tranh và Hoà bình 5
Một nét đặc trưng khác của quan điểm Kitô giáo nằm ở trách
nhiệm hướng dẫn cá nhân biết phân định những góc cạnh khác nhau
của cùng một sự thiện. Lương tâm Kitô giáo không bao giờ mãn
nguyện hay nghỉ yên với tình trạng hiện tại. Trái lại, nó luôn khắc
khoải tìm cách hoàn thiện hoá phán đoán của mình và cố gắng tiến
bước không ngừng. Đức Gioan Phaolô II có lý khi viết: đức tin không
làm cho lương tâm say ngủ. Trái lại nó gieo vào lương tâm niềm khắc
khoải kiếm tìm những gì thích hợp hơn với phẩm giá của một hữu thể
có lý trí và tự do
2
.
Đứng trên phương diện hiện thực lịch sử, có thể nói cho đến
đầu thế kỷ IV, các Kitô hữu chủ trương bất bạo động. Trên thực tế, họ
chỉ là một nhóm nhỏ và thuộc thành phần vô danh tiểu tốt trong đế
quốc Roma rọâng lớn. Họ sống xa các trung tâm quyền lực (kinh tế,
chính trị, xã hội và quân sự). Trong mốt số giai đoạn, họ còn bị đặt ra
ngoài vòng pháp luật và thường xuyên bị bách hại.
Đối với các Kitô hữu tiên khởi, hoà bình trên trần thế này chỉ
là hình bóng và kết quả của niềm bình an đích thực nơi Đức Kitô, vị
“Thủ lãnh Hoà bình”(Is 9, 5). Nhờ máu đổ ra trên Thập giá, Ngài đã
tiêu diệt hận thù ngay trong thân xác của Ngài(Ep 2, 16) (x. Cl 1, 20-
22). Chính Ngài đã giao hoà loài người với Thiên Chúa, đồng thời
thiết lập Hội thánh như bí tích nối kết nhân loại với Thiên Chúa và
giao hoà nhân loại với nhau. Giáo huấn của Đức Kitô và đặc biệt Bài
giảng trên núi trở thành Hiến chương của cuộc sốngï:
“Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó,
vì Nước Trời là của họ.
Phúc cho ai hiền lành,
vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.
Phúc cho ai sầu khổ,
vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.
Phúc cho ai khát khao nên công chính,
vì họ sẽ được Thiên Chúa cho mãn nguyện.
2
Xem Gioan Phaolô II, Discours aux travailleurs de Civita Vecchia, 19-
3-1987, in Osservatore Romano, 20 – 3- 1987. 6 Nguyễn Thái Hợp
Phúc cho ai xót thương người,
vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.
Phúc thay ai xây dựng hoà bình,
vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Phúc cho ai bị bách hại vì sống công chính,
vì Nước Trời là của họ” (Mt. 5,3-10).
Giới luật “Chớ giết người” (Mt 5,21), mệnh lệnh không báo
oán, trái lại phải tha thứ, yêu thương và cầu nguyện cho những người
ngược đãi (Mt 5, 44-45) đã trở thành kim chỉ nam của cuộc sống. Dĩ
nhiên, người Kitô hữu có thể đòi hỏi những người đã gây tổn thương
cho mình phải có hành động đền bù để sửa lại điều dữ, tuy nhiên giận
dữ đến độ muốn giết đối phương hay ước muốn trả thù là vi phạm đến
đức ái.
Chính vì thế chúng ta không ngạc nhiên khi thấy các Kitô hữu
tiên khởi tuyệt đối chống lại chiến tranh và bạo lực. Một số tín hữu còn
tẩy chay cả nghĩa vụ quân sự, vì trên nguyên tắc không thể chấp nhận
việc binh đao. Khi điều kiện lịch sử khắc nghiệt bắt buộc phải chọn
lựa, thay vì làm nguyên nhân của chiến tranh và bạo lực, rất nhiều thế
hệ Kitô hữu đã chấp nhận trở thành nạn nhân. Và rất nhiều thế hệ Kitô
hữu đã can đảm đi ra pháp trường để làm chứng cho niềm tin kiên
cường của mình..
2- Quan niệm về chiến tranh chính nghĩa
Với Hiệp ước Milanô vào năm 313, hoàn cảnh đã thay đổi từ
căn bản. Kitô giáo trở thành quốc giáo của một đế quốc đang tan rã,
với những cuộc chiến thiên thu bất tận. Nhiều cuộc tranh luận xảy ra
giữa lòng Giáo hội để xác định thái độ của Kitô giáo đối với chiến
tranh và vai trò của các Kitô hữu đối với xã hội trần thế. Tư tưởng chủ
đạo của thời đó cho rằng các các Kitô hữu phải tích cực hội nhập vào
cơ chế chính trị, kinh tế, hành chánh và phải cầm vũ khí để bảo vệ đế
quốc. Hành động dấn thân bảo vệ đế quốc này cũng được hiểu như
một hành động tự vệ để bảo đảm an ninh, trật tự, văn minh và hoà
bình. Lương tâm của nhiều Kitô hữu phải đối diện với một thách đố Chiến tranh và Hoà bình 7
mới: Một mặt phải rao giảng tình thương và công lý chống lại bạo lực
và bất công, mặt khác ra như lại phải nhân danh tình thương sủ dụng
chính bạo lực để bảo vệ công lý và hoà bình(!). Rất nhiều câu trả lời
khác nhau đã được đưa ra. Có những người nhất định không chấp nhận
bất cứ giải pháp thoả hiệp nào có nguy cơ làm băng hoại tính nhất
quán của niềm tin Kitô giáo. Họ nhất quyết rời bỏ làng mạc và thành
thị của đế quốc để đi vào hoang địa, ngõ hầu sống trọn vẹn lý tưởng
của Tin Mừng.
Có những người khác lại quan niệm việc dấn thân phục vụ và
bảo vệ cơ cấu chính trị, kinh tế và xã hội hiện hành như một trách
nhiệm của đức ái. Theo họ, có hai hình thức vi phạm công lý: một mặt
là làm một hành động bất công, mặt khác là không trợ giúp các nạn
nhân của bất công. Thật vậy, nếu giáo huấn bất bạo động của Bài
giảng trên Núi cấm chúng ta sử dụng võ lực, giới răn yêu thương lại
đòi hỏi chúng ta phải bảo vệ, trong mức độ có thể, những ai đang lâm
nguy. Như vậy, phải chăng chiến tranh tự vệ không những được phép,
mà còn cần thiết?
Thánh Âu tinh là thần học gia tiên khởi đã trình bày một cách
hệ thống quan điểm của Kitô giáo về “chiến tranh & hoà bình”. Ngài
viết tác phẩm nổi tiếng “Thành trì của Thiên Chúa” trong chợ chiều
của đế quốc Roma. Đặc biệt để trả lời cho những thao thức của niềm
tin và những thách đố mới của thời đại, giữa lúc thành Roma đang bị
quân “man di” bao vây, thánh nhân soạn thảo “thần học về hoà bình”,
một quan điểm thần học nhuốm màu sắc cánh chung và chiụ ảnh
hưởng sâu đậm của thần học về ân sủng.
Dựa trên quan niệm xã hội của triết gia Aristote và của phái
khắc kỷ, thánh nhân đưa ra một số yếu tố và điều kiện để kiến tạo một
nền hoà bình đích thực. Trước hết, hoà bình được quan niệm như
“tranquillitas ordinis”, nghĩa là sự ổn định về trật tự hay tình trạng an
hoà về xã hội hoặc một tương quan xã hội hài hoà (ordinata
concordia). Hoà bình này đòi hỏi cố gắng kiếm tìm, xây dựng và bảo
vệ, ngay cả với việc dùng biện pháp trừng phạt, ngõ hầu mọi người
“tuân phục một cách chân thành và trật tự đối với luật vĩnh cửu” (lex
oeterna). 8 Nguyễn Thái Hợp
Theo thánh nhân, trong phạm vi nhỏ hẹp của gia đình cũng
như trên lãnh vực xã hội-chính trị, “hoà bình là sự nối kết hài hoà
quyền lợi của các công dân, vừa được xây dựng trên những quy tắc
đạo đức vừa tôn trọng tha nhân”. Bản chất của nền hoà bình ở trần thế
là công lý và công lý này được định nghĩa như một nhân đức xã hội
nhằm trả lại cho mỗi người những gì thuộc về họ.
Thánh Âu tinh quan niệm việc đảo lộn trật tự công lý của hòa
bình trong cộng đồng chính trị là một tội chống lại trật tự thần thiêng
của tạo dựng. Chính vì vậy, Nhà Nước hợp pháp có quyền xử dụng
bạo lực quân sự như một phương tiện cần thiết để trừng trị người có tội
và để tái lập cũng như duy trì hoà bình.
Cuộc chiến để trả thù cho những bất công này được gọi là
chiến tranh chính nghĩa (Justa bella ulciscultur injurias). Thánh nhân
đưa ra một số tiêu chuẩn căn bản để thẩm định giá trị pháp lý và chính
nghĩa của cuộc chiến này: lý do chính đáng, ý định chính đáng, quyền
lực tuyên bố chiến tranh chính đáng.
Ở giai đoạn cực thịnh của thời Trung cổ, thánh Tôma lấy lại
quan điểm của thánh Âu tinh, bổ túc thêm bằng quan điểm của triết
học Aristote, cộng thêm những dữ kiện đặc biệt của thời đại. Hoà bình
vừa là một quan niệm tổng quát, vừa là một thực tế phức tạp bao hàm
nhiều yếu tố: xã hội, chính trị, đạo đức, công bằng, nhân ái ... Thánh
nhân cũng đưa ra một sự phân biệt rõ rệt giữa hoà bình hoàn hảo với
hoà bình tương đối ở trần thế.
Xã hội của thánh Tôma là một xã hội loạn lạc và chiến tranh
triền miên giữa các lãnh Chúa. Cái bi đát nhất là không có một pháp
quyền nào vừa công minh, vừa đủ sức mạnh để đưa ra những trừng
phạt hợp lý trong tương quan quốc tế, ngõ hầu bảo vệ và duy trì hoà
bình. Để giảm thiểu tới mức tối đa những cuộc chiến tranh vô lý và để
đặt nền tảng xây dựng một nền hoà bình bền vững, thánh Toma đã đưa
ra những nguyên tắc luân lý về “chiến tranh chính đáng”. Nhà cầm
quyền chỉ được phép tuyên chiến để tự vệ và bảo vệ công thiện công
ích, khi hội đủ những yếu tố sau đây: Chiến tranh và Hoà bình 9
Chính nghĩa: chỉ được phép tuyên chiến khi phải tự vệ để
bảo vệ người dân vô tội, bảo vệ nhân quyền, tổ quốc và
những điều kiện cần thiết cho cuộc sống.
Tuyên chiến do cơ quan hữu trách, nghĩa là do nhà cầm
quyền có trách nhiệm về vận mệnh của quốc gia. Tuy
nhiên, trong những cuộc chiến tranh cách mạng chống
chính quyền ngoại xâm hoặc để lật đổ bạo quyền, người
dân có quyền nổi dậy.
Thiện ý: mục tiêu của cuộc chiến là để tái lập hòa bình và
bảo vệ công thiện công ích. Chính vì vậy, phải tránh
những cuộc tàn phá vô ích, trái lại phải nỗ lực thương thảo
và phải coi chiến tranh là giải pháp cuối cùng.
Chắc chắn thành công: Nguyên tắc này khó áp dụng. Tuy
nhiên nó giúp người ta tránh những hành động nông nổi,
thiếu khôn ngoan hay cuồng vọng.
Tương xứng: Tiêu chuẩn này đòi hỏi phải cẩn trọng lượng
định những hậu quả tai hại về tinh thần và vật chất do
chiến tranh gây nên với những kết quả tốt đẹp mà cuộc
chiến sẽ mang lại.
Quan niệm luân lý này không chủ ý soạn thảo một binh thư
hay một tiểu luận thần học để bênh vực chiến tranh, mà để tái lập trật
tự công bằng của hoà bình và xác định những yếu tố lý thuyết cần thiết
ngõ hầu hướng dẫn nhà cầm quyền trong việc chọn lựa một giải pháp
chính trị nhân ái và có trách nhiệm đối với con người cũng như đối với
đất nước. Trong nhiều trường hợp, việc áp dụng những nguyên tắc về
“chiến tranh chính đáng” đã giảm thiểu những cuộc xung đột giữa các
vương quốc, tiểu vương hay thành thị. Thật vậy, theo thánh Tôma, lý
tưởng là bảo vệ và kiến tạo hoà bình. Chiến tranh luôn luôn là hạ sách
và chỉ nên sử dụng khi không còn giải pháp nào hay khi tất cả những
giải pháp thương thảo đã thất bại. Trong trường hợp ngoại lệ, chỉ được
phép tuyên chiến khi hội đủ những lý do chính đã nêu rõ ở trên.
Một số luật gia và thần học gia đã đưa thêm yếu tố chống lại
Thiên Chúa và Giáo hội như lý do chính đáng để tuyên chiến. Đây là 10 Nguyễn Thái Hợp
một hình thức biện minh và hợp thức hoá các cuộc “thánh chiến”, cũng
như một số “chiến tranh chiếm thuộc địa” của các nước Tây phương.
Dĩ nhiên, có những thần học gia không chấp nhận lối giải thích mở
rộng này. Tuy nhiên, trong thực tại lịch sử, đây là một quan niệm
chung ở thời đó và vẫn tiếp tục tồn tại cho đến đầu thế kỷ 20. Đức
Gioan Phaolô II đã chính thức xin lỗi Thiên Chúa và nhân loại về
những lạm dụng đau thương trong quá khứ nhân danh những “cuộc
chiến tranh chính nghĩa” này.
3)- Quan điểm của Giáo huấn xã hội Công giáo
Thế kỷ 20 được coi là thế kỷ bạo tàn nhất trong lịch sử nhân
loại. Hai cuộc thế chiến đã tiêu diệt 50 triệu sinh mạng. Năm 1945, trái
bom nguyên tử đầu tiên đã tàn sát vỏn vẹn trong vài phút hàng trăm
ngàn sinh mạng tại Hiroshima. Và sau thế chiến II, 150 chiến tranh
khác đã giết chết hơn 20 triệu người.
Ngay từ năm 1915, đức Bênêdictô XV đã uỷ lạo các chiến
binh và nhắc nhở các vị lãnh đạo quốc gia đang lâm chiến về trách
nhiệm lương tâm của họ. Giữa cảnh hoang tàn đổ nát của thế chiến I,
ngài ban hành thông điệp “Pacem Dei) (Hoà bình của Thiên Chúa)
(1920). Trong thế chiến thứ II, qua các sứ điệp Giáng sinh (từ 1939
đến 1957), đức Piô XII kêu mời các nhà lãnh đạo kiếm tìm một nền
hoà bình trong danh dự, đồng thời nêu lên các nguyên tắc luân lý để tái
thiết một thế giới công bằng và liên đới.
Suốt thời kỳ mệnh danh là “chiến tranh lạnh”, hiểm hoạ chiến
tranh hạt nhân luôn luôn ám ảnh và đe doạ sự sống còn của tất cả
nhân loại. Quan niệm cổ điển về chiến tranh tự vệ chính đáng không
còn thích hợp với hoàn cảnh một chiến nguyên tử. Tháng 10 năm
1962, khi xảy cuộc khủng hoảng về hoả tiễn ở Cuba, đức Gioan XXIII
đã tích cực góp phần cứu vãn thế giới khỏi thảm hoạ thế chiến III.
Một năm sau, ngài ban hành thông điệp “Hoà bình trên thế
giới” để kêu gọi quyết tâm xây dựng một nền hoà bình chống lại chiến
tranh. Đây là thông điệp đầu tiên không những gởi đến người Công
giáo, mà còn gởi đến “tất cả những người thành tâm thiện chí” trên thế
giới. Thông điệp này gây một ấn tượng đặc biệt trong dư luận: tổng Chiến tranh và Hoà bình 11
thống Kennedy và tổng bí thư Khrouchtchev thích thú đọc thông điệp
này.
Giữa lúc các phe đối lập đang hăm hở chạy đua võ trang và coi
việc quân bình võ trang như yếu tố quyết định để kiến tạo hoà bình, cụ
già Gioan XXIII đặt ngược vấn đề và đề nghị giải trừ vũ khí, bởi vì
“nếu một nước vũ trang, thì các nước khác cũng phải chạy theo để vũ
trang như vậy. Và nếu một nước sản xuất vũ khí nguyên tử, các nước
khác cũng phải sản xuất vũ khí nguyên tử có khả năng tàn phá tương
tự.
Kết quả, nhân loại phải sống dưới nỗi lo sợ một trận cuồng
phong có thể ập tới bất cứ lúc nào, với sức tàn phá không thể tưởng
tượng được. Bởi vì vũ khí đã có sẵn đó và rất khó nghĩ rằng chúng ta
luôn có những người đủ khả năng để ý thức trách nhiệm về những tàn
phá và khổ đau do chiến tranh gây nên. Cũng không loại trừ giả thuyết
một sự kiện bất ngờ và ngoài sự dự phòng nào đó có thể châm ngòi
chiến tranh. Ngoài ra, cần ý thức rằng, nếu giả như chiến tranh không
xảy ra, nhờ chính sức mạnh phá huỷ ghê gớm của vũ khí, thì cũng có
lý để lo sợ rằng chỉ nguyên sự kiện tiếp tục thử nghiệm nguyên tử với
mục đích chiến tranh có thể dẫn đến những hậu quả thảm khốc cho sự
sống trên trái đất này” (Pacem in terris, 39).
Công đồng Vatican II đào sâu và đẩy mạnh quyết tâm xây
dựng hoà bình. Sau khi nhắc lại những thảm hoạ của hai cuộc đại
chiến, Hiến chế “Hội thánh trong thế giới hôm nay” viết: “Sự phát
triển khí giới khoa học làm cho chiến tranh tăng thêm độ ghê tởm và
khốc hại khôn lường. Thật vậy, hành động hiếu chiến đi đôi với việc
sử dụng những khí giới này có thể đưa đến những tàn khá lớn lao và
khôn lường, do đó vượt xa giới hạn của việc tự vệ chính đáng. Hơn
nữa, nếu sử dụng tất cả những phương tiện hiện có trong các kho vũ
khí của các cường quốc, sẽ xảy ra một cuộc tương tàn hầu như triệt để.
Mỗi bên sẽ bị đối phương tận diệt. Đó là chưa kể đến những cuộc tàn
phá xảy ra trong thế giới và những hậu quả khốc hại do việc sử dụng
những khí giới nói trên”.
Chính trong viễn tượng đó, Công đồng tuyên bố: “Mọi hành
động gây chiến nhằm tiêu diệt bừa bãi cả một thành phố hay những 12 Nguyễn Thái Hợp
vùng rộng lớn cùng với dân cư ở đó là một tội ác chống lại Thiên Chúa
và chính con người. Phải cực lực và không ngần ngại lên án tội ác đó.
(...). Để cho thảm trạng đó không bao giờ xảy ra, các Giám mục trên
toàn thế giới nhất trí tha thiết kêu gọi mọi người, nhất là các nhà cầm
quyền quốc gia, cũng như nhữnng vị chỉ huy quân sự, hãy cẩn trọng
lượng định trách nhiệm của mình trước mặt Thiên Chúa và toàn thể
nhân loại” (GS., số 80).
Ngày 4 tháng 10 năm 1965, trong diễn văn lịch sử đọc trước
Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc nhân dịp kỷ niệm 20 năm ngày thành lập
của tổ chức này, đức Phaolô VI đã long trong nhắc lại sứ mệnh cao cả
của Liên Hiệp Quốc. “Quý vị hiện hữu và hành động để nối kết các
Quốc gia, (...) để liên kết nước này với nước khác. Quý vị là nhịp cầu
giữa các dân tộc. Quý vị là mạng lưới tương giao giữa các dân tộc.
Chúng tôi dám nói rằng, trong một mức độ nào đó, đặc tính của LHQ
phản ảnh trong lãnh vực trần thế điều mà Giáo hội Công giáo của
chúng tôi muốn thực hiện trong lãnh vực tâm linh: duy nhất và phổ
quát. Ơn gọi của qúy vị là kiến tạo tình huynh đệ không phải chỉ cho
một số, mà cho tất cả các Dân tộc. Sứ vụ khó khăn, nhưng đó là sứ vụ,
sứ vụ cao quý nhất của quý vị”.
Để biểu lộ quyết tâm của Giáo hội đối với vấn đề công lý và
hoà bình, năm 1967, đức Phaolô VI thiết lập Hội đồng Giáo hoàng
“Công lý và Hoà bình”. Kể từ năm 1968, ngài thiết lập thêm ngày
“Hoà bình Thế giới”. Hàng năm cứ vào ngày 1 tháng giêng, ngài công
bố một sứ điệp hoà bình và sứ điệp này được dư luận lắng nghe.
Theo Giáo huấn xã hội Công giáo, công lý giữ một vai trò quan
trọng trong sứ vụ rao giảng Tin Mừng ở thời đại chúng ta. Tuy nhiên,
dưới viễn quan Kitô giáo, công lý có tương quan rất chặt chẽ với bác
ái. Không thể có yêu thương đích thực nếu thiếu vắng công lý, nhưng
nếu vắng bóng tình thương, công lý sẽ trở thành lạnh lùng, chai cứng,
thiếu sinh khí và thiếu con tim. Nó chỉ là một công lý chết.
Chính trong ý nghĩa đó mà Thượng Hội đồng các Giám mục về
“công lý trong thế giới hôm nay” đã xác quyết: “Không thể tách rời
công lý và tình yêu Kitô giáo đối với tha nhân. Bởi vì tình yêu bao Chiến tranh và Hoà bình 13
hàm một đòi hỏi tuyệt đối về công lý, nghĩa là việc nhìn nhận phẩm
giá và những quyền lợi của tha nhân; đồng thời công lý chỉ đạt tới sự
viên mãn nội tại trong tình yêu. Với xác tín rằng mỗi người đích thực
là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình và em của Đức Kitô, người Kitô
hữu nhìn thấy trong mỗi người hình ảnh của Thiên Chúa và yêu sách
tuyệt đối về công lý cũng như về tình yêu là chính yêu sách của Thiên
Chúa”.
Với niềm xác tín đó, Giáo hội tận lực tranh đấu cho công lý,
nhưng không bao giờ dừng lại ở công lý. Trái lại Giáo hội luôn mời
gọi con người can đảm đi xa hơn công lý để vươn tới suối nguồn đích
thực của nó là tình yêu thương, lòng nhân ái, từ bi và tha thứ. Giáo chủ
Gioan Phaolô II đã diễn tả một cách sâu sắc mối tương quan sinh tử
giữa công lý và tình thương như sau:
“Lòng thương xót đích thực theo một nghĩa nào đó, là suối
nguồn sâu xa nhất làm phát sinh công lý. Nếu công lý tự nó là thích
hợp cho việc phân xử giữa người với người liên quan tới sự phân phối
của cải vật chất một cách công bằng, thì tình yêu và chỉ có tình yêu
(bao gồm cả thứ tình yêu khoan dung mà ta gọi là lòng thương xót)
mới có thể trả con người về lại với chính mình. Lòng thương xót thật
sự Kitô giáo, theo một nghĩa nào đó, cũng là hiện thân hoàn toàn nhất
của sự bình đẳng giữa người với người và do đó cũng là hiện thân
hoàn toàn nhất của công lý vì trong lãnh vực riêng của nó, công lý
cũng nhắm tới cùng một kết quả như thế. Tuy nhiên sự bình đẳng do
công lý mang lại chỉ giới hạn ở lãnh vực của cải vật chất bên ngoài,
còn tình yêu và lòng thương xót lại giúp con người có thể gặp gỡ nhau
nơi giá trị cao cả là chính con người, với phẩm giá riêng của mỗi
người”
3
.
Trong sứ điệp “Ngày Hòa bình Thế giới” năm 1998, một lần
nữa ngài đề cập đến mối tương quan đặc biệt này: “Công lý vừa là một
nhân đức luân lý vừa là một khái niệm pháp lý. Đôi khi nó được biểu
3
Gioan Phaolô II, Thiên Chúa Giàu lòng thương xót, số 14. 14 Nguyễn Thái Hợp
thị như một người mắt bít kín; thật ra, nhiệm vụ riêng của công lý là
sáng suốt và tỉnh táo để bảo đảm sự cân bằng giữa quyền lợi và nghĩa
vụ, khuyến kích một sự chia sẻ đồng đều các trách nhiệm và phúc lợi.
Công lý phục hồi chứ không phá hủy, đưa tới hòa giải thay vì phục
thù. Xét cho kỹ, ở trong chiều sâu của nó, công lý bén rể trong tình yêu
mà lòng thương xót là một biểu hiện có ý nghĩa nhất. Vì thế, công lý
tách khỏi tình khoan dung sẽ trở thành lạnh lùng và độc ác”.
Cũng chính đức Gioan Phaolô II là một người không ngừng
tranh đấu cho nền hoà bình thế giới. Ngài tổ chức những buổi “cầu
nguyện liên tôn” cho hoà bình tại Assisi. Cũng chính ngài đã đưa ra
sáng kiến “ăn chay vì hoà bình”: năm 1986, ăn chay để kêu gọi giải
trừ vũ khí nguyên tử; 10 tháng giêng năm 1993 và 21 tháng giêng năm
1994, ăn chay cho hoà bình tại Bosnia; ngày 14 tháng 12 năm 2001,
sau biến cố 11-9 và trùng hợp với lễ Ramadan của Hồi giáo, ăn chay
để cầu nguyện cho hoà bình thế giới.
Sứ điệp về “Ngày Hòa bình Thế giới” năm 2002 mang một ý
nghĩa đặc biệt, sau biến cố 11 tháng 9. Gioan Phaolô II khẳng định:
“Không có hoà bình nếu thiếu công lý, cũng chẳng có công lý nếu
vắng bóng thứ tha: đó là điều chúng tôi muốn nhắc nhở tất cả những ai
đang nắm vận mệnh cộng đồng nhân loại, để làm sao trong những
quyết định trọng đại và khó khăn luôn để cho ánh sáng chân lý hướng
dẫn, hầu mang lại lợi ích cho con người”.
4- Cổ võ hoà bình: Giữa những hồi trống trận!
Việc giải thể Liên bang Xô-viết và kết thúc chiến tranh lạnh
gieo niềm hy vọng về một thế giới hiệp nhất, an hoà và dễ sống hơn
cho mọi người. Nhưng nền hoà bình đích thực mà mọi người mong đợi
vẫn chưa trở lại. Nhân loại đã bước từ thời “chiến tranh lạnh” sang
giai đoạn “hoà bình nóng”. Súng vẫn nổ và máu vẫn tiếp tục đổ ra qua
những cuộc khủng bố và chiến tranh vì lý do sắc tộc, tôn giáo, văn
hoá, kinh tế...
Nhờ những phương tiện truyền thông xã hội tối tân, văn hoá
và nếp sống Tây phương, đặc biệt của giới bình dân ở Mỹ, đã trở thành Chiến tranh và Hoà bình 15
“văn hoá toàn cầu”. Hiện tượng này gây âu lo cho nhiều người ở các
nước chậm tiến. Đặc biệt, nhóm toàn thống (fondamentalisme) và
nhóm toàn thủ (intégrisme) của Hồi giáo kịch liệt chống đối. Mỗi
ngày, sự đối lập giữa chủ nghĩa Islam cực đoan với hiện đại hoá và
toàn cầu hoá càng rõ nét. Không những tiến bộ khoa học kỹ thuật, mà
toàn bộ quan niệm về dân chủ, nhân quyền, tự do, bình đẳng ... đều bị
họ lên án. Họ không nhần ngại chủ trương tiến hành thánh chiến
(Djihad) để thiết lập bá quyền của “Nhà Islam” (Dar el-Islam), không
phải bằng đấu tranh tư tưởng, mà bằng võ lực. Chiến tranh, đối với họ,
bao gồm cả bạo lực khủng bố lẫn tàn sát. Hơn mười năm sau, đọc lại
câu nói của Ali Benhadji, cựu lãnh tụ Mặt trận Hồi giáo Cứu rỗi
Algérie (FIS), chúng ta vẫn cảm thấy lạnh người: “Lịng tin thật sự là
lịng tin thúc đẩy tín đồ đi tới sự hy sinh (...) Lịng tin, tín ngưỡng
khơng được tưới bằng máu thì khơng lớn lên được, khơng sống
được. Các nguyên lí được củng cố nhờ những sự hy sinh, xả thân
cảm tử và tuẫn tiết vì Allah. Niềm tin lan truyền bằng tổng số
các cuộc tàn sát và những xác chết. Người chiến sĩ phải hy sinh
thì sá gì : đĩ là người chiến thắng "
4
.
Vụ khủng bố tập thể ngày 11-9-2001 là một biến cố làm hiển
hiện dòng chảy ngầm của lịch sử. Nó vượt khỏi quy mô của một hành
động khủng bố đơn thuần để trở thành một hành động thách thức, một
lời tuyên chiến. Thật vậy, tổ chức Islam cực đoan Al Qaeda nhân danh
Allah toàn năng tuyệt đối và độc nhất tuyên chiến cả với “quân ngoại
đạo” lẫn “bọn phản đạo”. Oái ăm thay, cuộc “chiến tranh trừng trị”
đơn phương hay đơn phương liên kết chống khủng bố do Mỹ chủ
trương cũng vẫn luẩn quẩn trong cái logích và não trạng “thánh chiến”
này!ù. Khi Tổng thống G. Bush tuyên bố: “Bắt đầu từ hơm nay, bất
kỳ nước nào tiếp tục che chở hoặc giúp đỡ khủng bố đều bị Hoa
Kỳ xem như là một chính thể thù nghịch" (!), phải chăng đường lối
của Hoa Kỳ cũng mang tính cường điệu toàn thống? Phải chăng đã
4
Xem B.R. Barber, Djihad versus McWorld, Desclée de Brouwer,
Paris,1997. 16 Nguyễn Thái Hợp
tiên thiên ngầm lập lại phân biệt nhị nguyên cổ điển: 1) Mỹ là “tốt”, là
“thiện”; 2)- chiến tranh chống khủng bố là cuộc đấu tranh giữa Thiện
và Ác; 3)- thành ra, ai không đi theo ta là chống lại ta?
5
Trong niềm háo hức phân biệt đen – trắng, thiện – ác và chính
– tà ấy, quan niệm chiến tranh chính nghĩa cổ điển cũng đang được
triệt để khai thác để phết lên một lớp sơn chính nghĩa trên cuộc chiến
chống Saddam. Áp dụng học thuyết của Augustin, 40 trí thức sáng
chói nhất của Mỹ đã ra tuyên ngôn gởi khắp nơi trên thế giới để gián
tiếp biện minh cho cuộc chiến này : " chiến tranh chính nghĩa chỉ cĩ
thể thực hiện do một chính quyền được cơng nhận là chính đáng,
cĩ trách nhiệm duy trì trật tự cơng cộng. Bạo lực suơng, nhắm
lợi mà bất cần nguyên tắc, hoặc do cá nhân gây ra, khơng bao
giờ được đạo đức chấp nhận ". Al Qaida rơi đúng vào định nghĩa
đĩ. Nhưng Irak thì sao? Đặc biệt, đâu là vai trò của LHQ trong việc
giải quyết những tranh chấp quốc tế hôm nay?
Đối với Liên Hiệp Quốc, một tổ chức được khai sinh để ngăn
cản chiến tranh và suốt 57 năm qua không chiến tranh nào được coi là
chính đáng nếu không có con dấu của Hội đồng Bảo an, bản tuyên
ngôn viết: " Cĩ người cho rằng [...] việc sử dụng vũ lực phải được
một cơ quan quốc tế, như LHQ, chấp nhận. Ðề nghị này chỉ cĩ
tính cách giả thuyết. Trước hết, đây là một điểm mới : về phương
diện lịch sử, sự chấp nhận của quốc tế chẳng bao giờ được các
lý thuyết gia của chiến tranh chính nghĩa xem như một địi hỏi
chính đáng. Thứ hai, chẳng cĩ gì chứng tỏ rằng một cơ quan
quốc tế như LHQ là cơ quan cĩ khả năng nhất để quyết định lúc
nào, và trong điều kiện nào, việc dùng vũ lực là chính đáng...
5
Điều bất ngờ là ông George Soros, một tài phiệt người Mỹ lừng danh
trên thế giới, cũng gọi tổng thống Bush là đế quốc: “Tổng thống (Bush)
sai lầm khi nói rằng những ai không theo chúng ta là chống lại chúng
ta”. Đó là một quan niệm đế quốc theo đó Hoa Kỳ truyền lệnh và
những người khác nghe theo”. Chiến tranh và Hoà bình 17
Biến LHQ thành hình bĩng mờ nhạt của một Quốc gia để quy
định việc sử dụng vũ lực quốc tế là một dự án tự sát ".
Những nhận định này xem ra có thể áp dụng vào trường hợp
Irak. Và cho cả những cuộc chiến tranh chống khủng bố khác triền
miên bất tận của ngày mai? Có điều chắc chắn là nếu áp dụng quan
điểm này thì đương nhiên người ta đã giải thể không những Hội đồng
Bảo an, mà ngay cả Liên Hiệp Quốc nữa. Nhiều bài diễn văn của tổng
thống G. Bush đã đào sâu và xoáy mạnh vào cái chính nghĩa của một
chiến tranh trừng phạt. Từ trước đến nay, tự do vốn là lá cờ và con bài
của chính phủ Mỹ. Bây giờ tổng thống G. Bush kéo thêm công lý:
"Hoa Kỳ phải bảo vệ tự do và công lý”. “Chúng ta xây dựng một thế
giới công lý”. Nhưng lấy gì đo lường công lý này? Ông Bush chủ
trương dùng đạo đức để đo lường công lý, cho nên hai chữ đạo đức
không rời khỏi hàm răng của ông: " Có người cho rằng nói lên ngôn
ngữ phải trái là thiếu ngoại giao hoặc thiếu lễ độ. Tôi không đồng ý.
Hoàn cảnh khác nhau đòi hỏi biện pháp khác nhau, nhưng không đòi
hỏi đạo đức khác nhau".
Sứ quán Hoa Kỳ cạnh Toà thánh Vatican đặc biệt mời ông
Michael Novak – một người Mỹ gốc Ba Lan, được mệnh danh là
“thần học gia” của phái tự do kinh tế – để công khai vận động cho
“chính nghĩa” của cuộc chiến tranh trừng phạt này. Ngoài những vận
động ngầm tại chính thủ đô của Giáo hội Công giáo, Michael Novak
đã tuyên bố trong một cuộc diễn thuyết do Sứ quán Hoa Kỳ tổ chức
rằng trong hoàn cảnh của một “chiến tranh không tương xứng”
(asymmetric) nhằm sát hại nhiều thường dân vô tội bằng vũ khí sinh
học, chiến tranh chống Irak nằm trong phạm trù của “chiến tranh tự
vệ”, bởi vì quân khủng bố đã tấn công Hoa Kỳ và Tây phương. Do đó,
đây là một “chiến tranh chính đáng chông lại một kẻ thù mới, kẻ thù
asymmetric”.
Giới Công giáo phản ứng mạnh mẽ phi bác ý kiến của ông
Novak. Hồng y Walter Kasper, chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Hiệp 18 Nguyễn Thái Hợp
nhất Kitô hữu, cực lực loại trừ việc sử dụng phạm trù cổ điển về
“chiến tranh chính đáng cho chiến tranh chống Irak. Dĩ nhiên, tôi
không hề bênnh vực ông Saddam Hussein, và cũng chẳng ai có thể làm
điều đó. Nhưng vẫn còn cơ hội để giải quyết vấn đề”. Hiệp hội các Bề
trên thượng cấp của các Dòng tu cũng khẳng định rằng “đứng trên
bình diện luân lý, hành động quân sự chống lại Irak trong lúc này
không thể biện minh được”. Hội đồng Giám mục Hoa kỳ tái khẳng
định bản tuyên bố theo đó trong hoàn cảnh hiện tại cuộc chiến chống
Irak vẫn không hội đủ những điều kiện thiết yếu theo quan điểm Công
giáo để sử dụng vũ lực. Một số Giám mục và thần học gia cũng tán
đồng quan điểm này.
Trên diễn đàn thế giới, vấn đề chiến tranh Irak ngày càng trở
nên sôi bỏng hơn. Lập trường của Hoa kỳ thật dứt khoát và quyết liệt:
Cũng như Al Qaida, Saddam Hussein thách thức đạo đức. Ông ta vi
phạm những quyết định của Hội đồng Bảo an. Ngoài ra, còn chứa chấp
và thông đồng với bọn khủng bố. Tội ác của y phải trừng trị. Nếu
không ai làm, thì Mỹ sẽ làm, dù là làm một mình và bất chấp quyết
định của Hội đồng Bảo an. Với Saddam, chỉ có chiến tranh mà thôi,
làm khác đi là dung dưỡng tội ác. Truất phế tên bạo tặc, chính là đạo
đức. Với đạo đức đó, tổng thống Bush nhất quyết chủ trương đánh
Irak. Nếu Hội đồng Bảo an không ra tay, Mỹ sẽ tự giải quyết, cho dù
phải hành động một mình. Tuy nhiên cho đến nay, Mỹ vẫn chưa dám
hành động một mình, mà vẫn cần tư cách pháp lý của HĐBA. Chính vì
vậy, Hoa kỳ công khai gây sức ép trên Hội đồng Bảo an để sớm có
một nghị quyết cho phép trừng phạt Saddam Hussein bằng vũ lực.
Tổng thống Jacques Chirac cực lực phản đối giải pháp đơn
cực của Hoa Kỳ và đề nghị một trật tự thế giới đa cực, xây dựng trên
luật pháp và đạo đức. Đối với Irak, Pháp đồng ý phải giải gáp, nhưng
trước tiên bằng phương pháp hoà bình và thông qua công tác của các
thanh tra vũ khí. Cần ủng hộ các thanh tra quốc tế và cho họ thêm thời
gian. Đức, Nga và Trung quốc ủng hộ lập trường này. Tại phiên họp Chiến tranh và Hoà bình 19
của Hội đồng Bảo an ngày 14 tháng 2, quan điểm của Pháp được 11
trên 15 thành viên ủng hộ.
Trong khi đó, tại hàng trăm thành phố trên thế giới, dân chúng
xuống đường chống chiến tranh Irak. Đặc biệt ở Roma, số người tham
dự lên tới khoảng 3 triệu, Barcelona khoảng 2 triệu, Luân Đôn khoảng
1 triệu. Ngay tai Nữu Ước cũng có hàng trăm ngàn người tụ họp trước
trụ sở LHQ, bất chấp thời tiết băng giá. Bên cạnh những biểu ngữ kêu
gọi hoà bình, có thêm nhiều biểu ngữ và khẩu hiệu chống chính sách
của tổng thống G. Bush. Phong trào bài Mỹ lên cao. Không những mối
tương quan thân hữu giữa Hoa Kỳ và Âu châu có nguy cơ rạn nứt, mà
sự hợp nhất của chính Âu châu cũng bị đe doạ, vì vấn đề Irak. Tại Hội
nghị Thượng đỉnh ở Bruxelles, các nhà lãnh đạo Âu châu phải cố gắng
lắm mới đạt tới giải pháp thoả hiệp tối thiểu: cần giải giáp Irak bằng
con đường hoà bình, nhưng cũng không loại trừ việc xử dụng vũ lực
khi cần thiết.
Lính Mỹ vẫn tiếp tục ồ ạt đổ bộ lên vùng Vịnh. Cùng với Anh
và Tây Ban Nha, Hoa Kỳ lại công bố một bản dự thảo Nghị quyết mới
đề nghị cấp tốc phải giải quyết vấn đề bằng chiến tranh. Càng để lâu
càng làm lợi cho con cáo già Saddam Hussein. Lập tức Pháp, Đức và
Nga phổ biến một kế hoạch mới nhằm giải giáp Irak bằng biện pháp
hoà bình. Trung Quốc tuyên bố sẽ ủng hộ kế hoạch này. Các thành
viên khác còn đang lưỡng lự.
Trống trận mỗi lúc một mạnh hơn. Chấn động cả địa cầu.
Tưởng chừng như chiến tranh đang ập tới! Nhưng đức Gioan Phaolô II
vẫn hy vọng, kiên trì và kiên cường tranh đấu cho một giải hoà bình.
Ngài không ngần ngại gởi đặc sứ sang Bagdad để đề nghị một giải
pháp hoà bình, đồng thời kêu gọi Irak thi hành nghiêm chỉnh Nghị
quyết 1441 của LHQ. Tổng thống Saddam Hussein trân trọng đóùn
nhận sứ điệp do Hồng y Etchegaray đích thân mang đến và gởi phó thủ
tướng sang gặp đức Giáo chủ. 20 Nguyễn Thái Hợp
Có lẽ nhiều người ta đang trông chờ một kết quả cụ thể hơn. Ít
nhất đã ló dạng một dấu hiệu của hy vọng: Irak bắt đầu phá huỷ hoả
tiễn Al Samoud, theo lời đề nghị của LHQ. Các thanh tra coi đây là
một bước tiến tích cực. Pháp đề nghị ủng hộ các thanh tra và gia tăng
thêm thời hạn. Nhưng Hoa Kỳ vẫn cho là một hành động lừa đảo của
Saddam Hussein để câu giờ. Cần phải ra tay ngay và phải lật đổ bằng
được Saddam Hussein, một trong những cựu đồng minh của Hoa Kỳ.
Nga doạ sẽ dùng quyền phủ quyết nếu Mỹ tuyên chiến!
Đối với quan điểm của Gioan Phaolô II, phát ngôn viên của
toà Bạch Ốc tuyên bố rằng “Vatican được nhìn nhận là một Nước có
chủ quyền”. Do đó, “theo lịch sử đức Giáo chủ có một vai trò quan
trọng trong lãnh vực đối thoại quốc tế và có quyền tham dự vào đó”,
tuy nhiên tổng thống Bush “sẽ lấy quyết định dựa trên những gì thích
hợp nhất để bảo vệ người Mỹ”.
Bất chấp tất cả, Vatican vẫn tiếp tục vận dụng tất cả khả năng
để duy trì hoà bình. Vỏn vẹn chỉ trong vòng gần ba tuần lễ cuối tháng
hai, đức Gioan Phaolô II đã tiếp Bộ trưởng ngoại giao Fischer (Đức),
phó thủ tướng Aziz (Irak), tổng thơ ký LHQ Kofi Annan, thủ tướng
Tony Blair (Anh), thủ tướng J.M. Aznar (Tây Ban Nha), phó chủ tịch
quốc hội Iran để nhận một mật thơ của tổng thống Khatami và ngày
mồng 3 tháng 3 sẽ gởi đặc sứ sang Washington để trao lá thơ riêng của
ngài cho tổng thống G. Bush.
Ngỏ lời với các tín hữu vào giờ Truyền tin, chủ nhật 23, đức
Gioan Phaolô II nhấn mạnh: “Đừng bao giờ, đừng bao giờ, đừng bao
giờ để cho tương lai của nhân loại được bảo vệ bằng khủng bố và bằng
lôgích của chiến tranh”. Theo ngài, “nhiệm vụ của tất cả các tín đồ, bất
chấp thuộc tôn giáo nào, là phải thâm tín rằng không bao giờ chúng ta
có hạnh phúc khi nhóm này chống lại nhóm khác”. Đối diện với hiểm
họa chiến tranh có thể tàn phá miền Cận Đông và làm gia tăng những
căng thẳng hiện hữu trên thế giới, ngài tuyên bố chọn ngày mồng 5
tháng 3, tức thứ tư Lễ Tro, làm ngày ăn chay và cầu nguyện cho hoà
bình.
Nhật báo Corriera della Sera, một tờ báo đời và khuynh hữu,
trong số ra ngày 24 tháng 2, ở trang nhất có một hí hoạ: tổng thống Chiến tranh và Hoà bình 21
Busch, mặc đồ trận và võ trang đầy mình, đang ngồi kéo tay với cụ già
Gioan Phaolô II. Một con chim hòa bình đậu phía sau, khích lệ: “Cố
lên Wojtyla, Thiên Chúa ở cùng ngài”.
“Còn nước còn tát”, cổ nhân ta thường nói thế. Người Mỹ
châu La tinh cũng có một ngạn ngữ tương tự: “Hy vọng là cái cuối
cùng phải đánh mất” hay “hy vọng chính khi không còn hy vọng”
(Roma, ngày 1-3-2003)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét